Antôn Nguyễn Văn TiếngSuy niệm

Suy Niệm Tin Mừng Lễ Đêm Giáng Sinh | NVT

SUY NIỆM TIN MỪNG
LỄ ĐÊM GIÁNG SINH
(Lc.2,1-14)
****

BÌNH AN CẢ VÀ THIÊN HẠ

000001agiangsinh02

           Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp thiên hạ. Đây là cuộc kiểm ra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-nô làm tổng trấn xứ Xy-ri. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế ông Giu-se từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê lên thành vua Đa-vít tức là Bê-lem, miền Giu-đê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đa-vít. Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.

            Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang Chúa chiếu tỏa chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ”. Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng:

                                                    Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
                                             Bình an dưới thế cho người Chúa thương.

______________

SUY NIỆM

BÌNH AN CẢ VÀ THIÊN HẠ.

          Câu “Bình an cả và thiên hạ” tôi chọn làm tựa đề cho bài chia sẻ này, được lấy từ lời giới thiệu của thi nhân Hàn Mặc Tử dành cho  tập thơ Tinh huyết của Bích Khê. “Phải mời cho được Xuân Thiên ra đời … Bình an cả và thiên hạ …”.

           Câu nói ấy làm tôi nhớ đến Đêm Ngôi Hai ra đời, “Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho người Chúa thương”.

            Bình an luôn là điều mong muốn số một của nhân loại, vì bình an là điều con người đang thiếu nhất.

            Nếu không có sự bình an, thì cũng có nghĩa là không có gì cả. Sự bình an đích thực, phải là sự bình an tại tâm. Sống trong cuộc đời hữu hạn này, không bao giờ ta có sự bình an hoàn toàn như lòng mong muốn.

            Tôi nhớ câu chuyện Boleslov của Maxim Gorky, một nhà văn nổi tiếng của Nga. Ông nói đó là câu chuyện của một người bạn kể lại cho ông nghe. Câu chuyện nói về một cô gái xấu xí, thô kệch, đã nhờ một chàng sinh viên viết dùm những bức thư tình để gởi cho người yêu tên Boleslov. Rồi lại cũng nhờ chính anh chàng sinh viên này đóng vai Boleslov để viết thư hồi âm cho cô. Thực ra, không hề có Boleslov, đó chỉ là một nhân vật tưởng tượng để cô gái tìm được sự bình an trong lòng. Cô gái giải thích cho chàng sinh viên về điều ấy: “Bức thư này, anh viết dùm tôi gởi Boleslov, tôi sẽ nhờ người khác đọc cho tôi nghe. Tôi lắng nghe và tưởng tượng như Boleslov đang sống. Và rồi tôi yêu cầu Boleslov hồi âm cho Teresa – cho tôi – Tôi cảm thấy và hầu như chắc chắn rằng Boleslov đang sống ở đâu đó. Tôi không biết ở đâu. Và như thế, tôi có thể yên lòng mà sống. Cuộc sống như vậy không quá vất vả, khủng khiếpcô độc !”. Maxim Gorky đã kết thúc câu chuyện này bằng một đoạn văn ngắn: “Ba tháng sau, cô bị bắt bỏ tù vì bị tình nghi điều gì đó. Tôi không bao giờ còn gặp lại cô nữa. Có lẽ Teresa đã chết”.

            Thật tội nghiệp cho cô gái bất hạnh. Sự bình an của cô gái Teresa chỉ là sự “bình an ảo”. Nương tựa vào sự bình an ảo, thứ hạnh phúc ảo, liệu con người có đứng vững trước mọi thử thách cuộc đời không ? 

            Theo thống kê của tổ chức Y Tế Thế Giới (WHO), mỗi ngày trên thế giới có khoảng 3000 người thực hiện hành vi tự tử. Trên thế giới, tự tử hiện là một trong 3 nguyên nhân tử vong hàng đầu ở tuổi từ 15-44 thuộc cả hai giới. Riêng ở Nhật, một nước có nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới, trung bình mỗi ngày có 88 người tự tử.

            Khi không có bình an nội tâm, cuộc đời không còn đẹp nữa. Nhưng để có bình an nội tâm, người ta phải hiểu giá trị cuộc sống và biết quý trọng nó. Nhưng làm sao người ta biết quý trọng nó, khi từng giờ phút cuộc sống là từng giờ phút nặng nề, của muôn thứ lo âu, “quá vất vả, khủng khiếp và cô độc” ?

            Con người đã tự đánh mất những ngày tháng êm ả bình an ở Vườn Địa Đàng khi đưa tay hái Trái Cấm với ước mơ tìm hạnh phúc ngoài Thiên Chúa theo ý riêng mình.

            Và con người bắt đầu biết sợ hãi, vì con người đánh mất tình yêu nơi Thiên Chúa. Trong tình yêu không có sự sợ hải. Sợ hãi là dấu hiệu của lầm lỗi và là khoảng cách của những tâm hồn.

            Nghe thấy tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày, con người và vợ mình trốn vào giữa cây cối trong vườn, để khỏi giáp mặt Đức Chúa là Thiên Chúa. Đức Chúa là Thiên Chúa gọi con người và hỏi : “Ngươi ở đâu ?”. Con người thưa : “Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hãi vì con trần truồng, nên con lẫn trốn”. Đức Chúa là Thiên Chúa hỏi : “Ai đã cho ngươi biết là ngươi trần truồng ? Có phải người đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không ?” Con người thưa : “Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn.” Đức Chúa là Thiên Chúa hỏi người dàn bà : “Ngươi đã làm gì thế ?” Người đàn bà thưa : “Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn”. (St.3,8-13).

ĐÊM AN BÌNH

            Đêm nay, đêm an bình. Đêm Vua Tình Thương ngự xuống trần thế. “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương.”

            Thiên Chúa vẫn yêu thương nhân loại. Con người “trốn chạy” Thiên Chúa vì tội lỗi, Thiên Chúa vẫn tìm đến với con người.

            Con người “trốn chạy” Thiên Chúa vì muốn “tự do” theo kiểu con người, Thiên Chúa vẫn tìm con người để đưa con người trở về con đường sống.

            Con người muốn “khướt từ” Thiên Chúa vì kiêu căng tự thấy mình có thể làm cho thế giới này tốt đẹp mà không cần có sự hiện diện của Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vẫn âm thầm đến với con người, lặng lẽ đồng hành với con người trên mọi nẻo đường cuộc sống, trong từng con tim nhân loại.

            Ta nương tựa vào đâu để “Cuộc sống không quá vất vả, khủng khiếpcô độc ?”.

            Nhìn vào Hang Đá, lặng ngắm Hài Nhi Giê-su, thật cảm động và lòng rất đổi bình an !

            Thiên Chúa cao cả, vì con người, đã trở thành bé nhỏ đến thế sao ? Còn bằng chứng tình yêu nào lớn hơn thế không ? Mầu Nhiệm Nhập Thể cũng chính là Mầu Nhiệm Tình Thương.

            Ta còn đó tình yêu Thiên Chúa, là còn đó một điểm để tựa vào.
            Ta còn đó tình yêu Thiên Chúa, là còn đó con đường Chân Lý để ta đi.
            Ta còn đó tình yêu Thiên Chúa, là còn đó niềm tin yêu vui sống.
            Ta còn đó tình yêu Thiên Chúa, là còn đó bến bờ để quay về.

LỜI NGUYỆN

            Lạy Chúa Giê-su Hài Đồng,

            Cho con bồng bế Ngài trên tay,
            Cho con hôn Ngài trên má,
            Cho con ca tụng Ngài bằng những lời ru,
            Cho con vui đùa với Ngài bằng những đồ chơi,
            Cho con vỗ về Ngài khi Ngài khóc,
            Cho con ăn nói huyên thuyên khi Ngài cười…

            Ôi, Thiên Chúa, Ngài gần gũi con biết bao !
            Lòng con thật bình an và hạnh phúc ! Amen.
             

              Lm. Antôn NGUYỄN VĂN TIẾNG

(Bài suy niệm viết năm phụng vụ A 2010)

__________

 SUY NIỆM ĐÊM GIÁNG SINH

***

 TIẾNG CHUÔNG ĐÊM THÁNH

000001agiangsinh03

Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp thiên hạ. Đây là cuộc kiểm ra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-nô làm tổng trấn xứ Xy-ri. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế ông Giu-se từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê lên thành vua Đa-vít tức là Bê-lem, miền Giu-đê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đa-vít. Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.

Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang Chúa chiếu tỏa chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ”. Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng:

                                                    Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
                                             Bình an dưới thế cho người Chúa thương.

________________   
                                                    
SUY NIỆM

TIẾNG CHUÔNG ĐÊM THÁNH

1. Một thế giới thiếu tình yêu

Có một câu chuyện  kể về “Tiếng chuông trong Đêm Tình Yêu” như sau:

Hằng năm, cứ đúng 12 giờ đêm Noel thì trong một ngôi nhà thờ cổ kính nọ, tiếng chuông Sinh Nhật sẽ ngân vang du dương, thánh thót như điệu nhạc thiên quốc, nhưng với điều kiện là phải có một món quà quý giá, hiếm lạđẹp nhất được đặt trên bàn thờ dâng Chúa Hài Nhi thì mới hy vọng được nghe tiếng nhạc đó.

Đã bao mùa Giáng Sinh qua đi mà tiếng chuông du dương ấy vẫn chưa trở lại với dân chúng xứ này, họ vẫn nghe tiếng gió thổi vi vu giữa bầu trời tuyết lạnh.  Chuyện về tiếng chuông lạ cũng được đồn thổi sang vùng lân cận và có hai anh em kia tên là Peter và John quyết định cả năm hy sinh dành dụm để có thể đem quà tặng Chúa Hài Nhi nhân dịp lễ Giáng Sinh với hy vọng được nghe tiếng chuông ngân nga.

Hôm vọng lễ, từ sáng sớm hai anh em đã khoác áo ấm, trùm khăn, đội nón đi bộ đến nhà thờ đó, bất chấp lớp tuyết cao cả thước phủ hai bên đường.  Đến chiều hai anh em vừa đến cổng thành thì gặp một cụ già ngã quỵ bên đường nằm bất động trên đống tuyết, bà không còn đủ sức để lê bước vì không có sự giúp đỡ của một ai trong thành.  Peter liền dừng lại cúi xuống tìm cách nâng bà dậy nhưng không thể được vì cậu quá nhỏ, sức yếu.  Sau cùng, Peter nói với em:

– Nếu chúng ta để bà một mình ở đây bà sẽ chết cóng, anh sẽ ở lại đây ôm bà để sưởi ấm cho bà, em hãy cầm lấy đồng tiền nhỏ này đem đặt trên bàn thờ, đó là món quà của anh em mình tặng Chúa Hài Đồng.  Lễ xong, em tìm người đến đây để giúp bà cụ.

Rồi quay sang bà lão, Peter an ủi:

– Bà hãy can đảm lên, đợi đến sau lễ sẽ có người hảo tâm ghé đến giúp bà.

Đêm hôm đó, nhà thờ chật ních đoàn người bốn phương tìm về dự lễ.  Đến cuối lễ, người người lần lượt tiến lên bàn thờ dâng Chúa Hài Đồng món quà quý giá và hiếm lạ.  Cuối cùng, có một ông vua tiến lên bàn thờ, trên tay vua là một triều thiên bằng vàng với mọi thứ đá quý và những hạt kim cương lấp lánh.  Mọi người im lặng nín thở, thầm nghĩ là thế nào cũng được nghe tiếng chuông ngân nga, nhưng họ thất vọng ngay sau đó vì chỉ nghe tiếng gió hú mà thôi.  Họ thì thầm với nhau, có lẽ chúng bị mắc kẹt đến muôn đời.  Ca đoàn nhà thờ chuẩn bị hát bài tạ lễ.  Tiếng đàn phong cầm vừa đệm được mấy nốt nhạc thì bỗng dưng im bặt.  Từ lúc đó, trên tháp chuông cao ngất người ta bắt đầu nghe những tiếng chuông ngân nga khi bổng khi trầm thật du dương thánh thót như điệu nhạc thiên quốc.

Mọi người hồi hộp trong thinh lặng, họ đưa mắt nhìn về phía bàn thờ xem có ai đem lễ vật quý nào cho Chúa Hài Đồng chăng?  Và họ trố mắt ngạc nhiên khi thấy một cậu bé khiêm tốn, lặng lẽ đặt lên bàn thờ đồng tiền nhỏ bé mà anh Peter đã đưa cho nó tặng Chúa Hài Đồng.

Ai cũng thấy thế giới này thật ra là rất giàu có. Ta thường nghe những câu nói như “thiên nhiên hào phóng ban tặng”, “rừng vàng biển bạc”… và bàn tay con người đã xây dựng nên bao kỳ quan từ sự hào phóng của thiên nhiên.

Nhưng, dục vọng  đưa đẩy con người đến sự kiêu căng, hưởng thụ và ích kỷ, làm cho con người tuy trở nên giàu có về vật chất, nhưng lại rất nghèo nàn về tinh thần.

Vì nghèo nàn về tinh thần, nên con người có vẻ như ngày càng giàu có hơn về vật chất, bởi vì chỉ nghĩ tới mình, ích kỷ, lo tom góp về cho mình, sống không cần biết đến ai, chỉ lo bảo vệ và chiếm đoạt, không hề biết đến sự chia sẻ, sự cho đi…

Và, như thế, không lạ gì, con người nghi kỵ nhau, không còn tin tưởng nhau, đi đến thù hận, tranh giành, chiếm đoạt, chiến tranh, khủng bố…

Sự cách biệt giàu nghèo, sang hèn, trên dưới…càng lúc càng xa… Kẻ sống xa xỉ, thừa mứa, người đói khổ, thiếu thốn; kẻ lắm biệt thự, lâu đài, người sống gầm cầu, xó chợ…

Thế giới giàu có, nhưng lại thiếu tình yêu.

Vật chất kim tiền không có nghĩa gì nếu không có tấm lòng chân thành, nên lễ vật dù “quý giá, hiếm lạ và đẹp nhất”, cũng không phải là của lễ đẹp lòng Chúa Hài Nhi.

Và, tiếng chuông Đêm Giáng Sinh ở ngôi giáo đường đừng cổ kín nào đó vẫn im bặt… 
    
Đến cuối lễ, người người lần lượt tiến lên bàn thờ dâng Chúa Hài Đồng món quà quý giá và hiếm lạ.  Cuối cùng, có một ông vua tiến lên bàn thờ, trên tay vua là một triều thiên bằng vàng với mọi thứ đá quý và những hạt kim cương lấp lánh.  Mọi người im lặng nín thở, thầm nghĩ là thế nào cũng được nghe tiếng chuông ngân nga, nhưng họ thất vọng ngay sau đó vì chỉ nghe tiếng gió hú mà thôi. (Tiếng chuông trong Đêm Tình Yêu).

2. Tiếng Chuông Đêm Thánh  

Hằng năm, cứ đúng 12 giờ đêm Noel thì trong một ngôi nhà thờ cổ kính nọ, tiếng chuông Sinh Nhật sẽ ngân vang du dương, thánh thót như điệu nhạc thiên quốc, nhưng với điều kiện là phải có một món quà quý giá, hiếm lạđẹp nhất được đặt trên bàn thờ dâng Chúa Hài Nhi thì mới hy vọng được nghe tiếng nhạc đó.(Tiếng chuông trong Đêm Tình Yêu).

Không phải chỉ là tiếng chuông trong ngôi nhà thờ cổ kín nào đó im bặt, mà mọi tiếng chuông trong Đêm Giáng Sinh không thể ngân lên trong lòng mỗi người  khi lòng người thiếu vắng tình thương.

Tiếng chuông trong ngôi nhà thờ cổ kính nọ đã ngân vang lên, khi đứa bé đặt lễ vật của nó lên bàn thờ dâng Chúa Hài Đồng. “Mọi người hồi hộp trong thinh lặng, họ đưa mắt nhìn về phía bàn thờ xem có ai đem lễ vật quý nào cho Chúa Hài Đồng chăng?” – Không có ! Vâng, hoàn toàn không có lễ vật nào quý giá, chỉ là một “đồng tiền nhỏ bé”.

Tiếng chuông đã không ngân lên vì những món quà “quý hiếm, đẹp mắt” như mọi người mong đợi.

Có một ông vua tiến lên bàn thờ, trên tay vua là một triều thiên bằng vàng với mọi thứ đá quý và những hạt kim cương lấp lánh. (Tiếng chuông trong Đêm Tình Yêu).

Tiếng chuông ngân vì vào thời điểm đó, anh của đứa bé này đang “sưởi ấm” một bà cụ gục ngã trong giá băng bằng vòng tay bé nhỏ của mình.

Nếu chúng ta để bà một mình ở đây bà sẽ chết cóng, anh sẽ ở lại đây ôm bà để sưởi ấm cho bà, em hãy cầm lấy đồng tiền nhỏ này đem đặt trên bàn thờ, đó là món quà của anh em mình tặng Chúa Hài Đồng.  Lễ xong, em tìm người đến đây để giúp bà cụ. (Tiếng chuông trong đêm tình yêu).

Và, cứ thế, những Đêm Giáng Sinh hằng năm lại về với nhân loại, tiếng chuông nào ngân lên trong lòng người vì con người đã biết dâng lên Chúa lễ vật Tình Thương ?

Biết bao thứ con người tiêu phí cho Đêm Giáng Sinh, rực rỡ và lộng lẫy, như những món quà quý giá, hiếm lạ và đẹp nhất, nhưng Tiếng Chuông Đêm Thánh có ngân lên trong tâm hồn ta không ? Hay tình yêu thiếu vắng, lòng ta trống trải, thù hận đè nặng… làm Tiếng Chuông Đêm Thánh im bặt trong thâm sâu lòng ta, từ bao giờ, và cho đến bao giờ…?

Không có tiếng chuông tình yêu ngân lên trong lòng ta, tiếng chuông ngoài không gian chỉ là những tiếng động vô hồn, rồi nó qua đi, như một thứ lễ hội “mua vui cũng được một vài trống canh” (ND), chẳng mang đến cho ta niềm vui và hạnh phúc đích thực cho đời ta.

Khi Tiếng Chuông Đêm Thánh rộn rã không gian, thì tiếng chuông ấy cũng rộn rã lòng ta – ta nghe được tiếng chuông tình yêu trong lòng mình – vì ta được đón nhận nguồn tình yêu bất tận của Thiên Chúa, và ta biết phân phát tình yêu đến mọi người.

Tiếng Chuông Đêm Thánh, Tiếng Chuông bình an và hạnh phúc.

Vinh danh Thiên Chúa trên trời,  
Bình an dưới thế cho người Chúa thương. Amen.

Lm. Antôn NGUYỄN VĂN TIẾNG

((Bài suy niệm viết năm phụng vụ A 2013)

 

 

Bài liên quan

Back to top button