CN.04 CHAY.A : Ánh Sáng Tâm Hồn | NVT
SUY NIỆM TIN MỪNG
CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY A
(Ga.9,1-41)
****
ÁNH SÁNG TÂM HỒN
1 Khi ra khỏi Đền Thờ, Đức Giê-su nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. 2 Các môn đệ hỏi Người: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” 3 Đức Giê-su trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. 4 Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. 5 Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian.”
6 Nói xong, Đức Giê-su nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, 7 rồi bảo anh ta: “Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa” (Si-lô-ác có nghĩa là: người được sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được.
8 Các người láng giềng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới nói: “Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?” 9 Có người nói: “Chính hắn đó!” Kẻ khác lại rằng: “Không phải đâu! Nhưng là một đứa nào giống hắn đó thôi!” Còn anh ta thì quả quyết: “Chính tôi đây!” 10 Người ta liền hỏi anh: “Vậy, làm sao mắt anh lại mở ra được như thế?” 11 Anh ta trả lời: “Người tên là Giê-su đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: “Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa. Tôi đã đi, đã rửa và tôi nhìn thấy.” 12 Họ lại hỏi anh: “Ông ấy ở đâu?” Anh ta đáp: “Tôi không biết.”
13 Họ dẫn kẻ trước đây bị mù đến với những người Pha-ri-sêu. 14 Nhưng ngày Đức Giê-su trộn chút bùn và làm cho mắt anh ta mở ra lại là ngày sa-bát. 15 Vậy, các người Pha-ri-sêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Anh trả lời: “Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy.” 16 Trong nhóm Pha-ri-sêu, người thì nói: “Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sa-bát”; kẻ thì bảo: “Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?” Thế là họ đâm ra chia rẽ. 17 Họ lại hỏi người mù: “Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh?” Anh đáp: “Người là một vị ngôn sứ!”
18 Người Do-thái không tin là trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, nên đã gọi cha mẹ anh ta đến. 19 Họ hỏi: “Anh này có phải là con ông bà không? Ông bà nói là anh bị mù từ khi mới sinh, vậy sao bây giờ anh lại nhìn thấy được?” 20 Cha mẹ anh đáp: “Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới sinh. 21 Còn bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi không biết, hoặc có ai đã mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay. Xin các ông cứ hỏi nó; nó đã khôn lớn rồi, nó có thể tự khai được.” 22 Cha mẹ anh nói thế vì sợ người Do-thái. Thật vậy, người Do-thái đã đồng lòng trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô. 23 Vì thế, cha mẹ anh mới nói: “Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó.”
24 Một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: “Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi.” 25 Anh ta đáp: “Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được!” 26 Họ mới nói với anh: “Ông ấy đã làm gì cho anh? Ông ấy đã mở mắt cho anh thế nào?” 27 Anh trả lời: “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông vẫn không chịu nghe. Tại sao các ông còn muốn nghe lại chuyện đó nữa? Hay các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy chăng?” 28 Họ liền mắng nhiếc anh: “Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Mô-sê. 29 Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê; nhưng chúng ta không biết ông Giê-su ấy bởi đâu mà đến.” 30 Anh đáp: “Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! 31 Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. 32 Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. 33 Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì.” 34 Họ đối lại: “Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư? ” Rồi họ trục xuất anh.
35 Đức Giê-su nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Người hỏi: “Anh có tin vào Con Người không?” 36 Anh đáp: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?” 37 Đức Giê-su trả lời: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây.” 38 Anh nói: “Thưa Ngài, tôi tin.” Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người.
39 Đức Giê-su nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù! “
40 Những người Pha-ri-sêu đang ở đó với Đức Giê-su nghe vậy, liền lên tiếng: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?” 41 Đức Giê-su bảo họ: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: “Chúng tôi thấy”, nên tội các ông vẫn còn! “.
_______________________
SUY NIỆM
Khi còn học tiểu học, tôi nhớ có một câu chuyện thầy kể về “Ánh sáng tâm hồn”, nội dung như thế này:
Có hai người học trò, một giàu, một nghèo, đến xin thầy nhận làm học trò. Thầy ra điều kiện, nếu hoàn thành được một công việc thầy giao, thì thầy sẽ nhận, nếu không thì thôi.
Ông Thầy trao cho mỗi người ba đồng, và dạy rằng: “Thầy sẽ giao cho mỗi người một gian phòng, sau ba ngày, kể từ hôm nay, chúng con hãy mua một thứ gì đó chất đầy gian phòng của mình. Ai trong chúng con chất đầy gian phòng mình bằng thứ gì quý giá nhất, người đó sẽ là môn sinh của thầy”.
Hai cậu học trò nhận tiền và ra về.
Cậu học trò con nhà giàu trên đường về vừa đi vừa lẩm bẩm: Với ba đồng này, mua quà vặt ăn còn chưa đủ nhét kẽ răng, thì có thể mua cái giống gì chất cho đầy gian phòng rộng thênh thang đó chứ ? Ông thầy dở hơi thế nào ấy ! Ba đồng giá đáng bao nhiêu ? Sao thầy lại xem ba đồng lớn thế nhỉ ? Nó như rơm như rác ! – “Rơm rác !”. Ah ! Ta nghĩ ra rồi ! và cậu ta lóe lên trong đầu óc mình một ý nghĩ mà cậu ta cho là một sáng kiến độc đáo: “mua rơm rác” chất vào gian phòng đó ! Và cậu ta làm như thế thật ! Cậu ta tự nhủ : Đó là câu giải đáp hay nhất ! Không thể có câu giải đáp nào hay hơn thế ! Cậu nhanh chóng “giải ra” đề thi của thầy, cậu hài lòng về sự thông minh của mình. Và cậu tiếp tục vui chơi, chờ ngày hẹn đến trình lên thầy đáp án chính xác của mình mà không cần nghĩ ngợi gì thêm nữa.
Còn phần cậu học trò con nhà nghèo về nhà không ngừng suy nghĩ ngày đêm. Cậu luôn tự hỏi không biết Thầy có ý gì khi giao cho mình ba đồng tiền ít ỏi này để làm một việc lớn lao như thế ! Nghĩ mãi mà vẫn không thể tìm ra cách để làm theo ý thầy muốn. Cậu tự trách mình đầu óc sao tối tăm đến thế ! Rồi một ngày trôi qua, hai ngày trôi qua, ngày thứ ba, ngày cuối cùng đến… khi ánh mặt trời sắp tắt, cậu học trò nghèo buồn bả đứng nhìn cảnh vật chìm dần vào bóng tối, cậu nghĩ bụng: thế là mình thua cuộc ! cậu bước vào nhà lòng nặng trĩu một nỗi buồn khó tả. Ngay lúc ấy, mẹ cậu cầm chiếc đèn dầu cũ kỷ từ dưới bếp lên. Cậu mở tròn xoe mắt, la to : “Con biết rồi, thầy ơi ! Con hiểu rồi ! Thầy ơi !”
Rất sớm, trong nắng mai của ngày cuối cùng đến hẹn, cậu học trò giàu đến gặp thầy, mời thầy đi qua gian phòng mà thầy đã giao cho cậu, cậu nói : “Thầy xem, con đã làm xong công việc khó khăn mà thầy đã giao cho”. Ông thầy chậm rải nói : “Con đã làm đúng như lời thầy bảo theo cách hiểu của con”. Ngừng lại một lúc, ông thầy giơ hai tay lên cao và nói tiếp, “nhưng, con xem, gian phòng trở nên tối tăm, không còn sử dụng được vào việc gì nữa, con đã chất đầy được gian phòng, nhưng những thứ con chất vào đó chỉ toàn là rác rưỡi, không có thứ gì quý giá. Con hãy về và cố gắng học điều này: Khi tâm hồn con người chỉ chất đầy những thứ xấu xa như rác rưỡi, thì nó trở nên tăm tối. Một tâm hồn tăm tối không những không giúp ích gì mà còn làm nguy hại cho đời nữa”.
Rất muộn, khi những tia nắng cuối cùng đã tắt lịm ở trời Tây, cậu học trò nghèo mới vội vã đến gian phòng của thầy đã giao, sau khi làm xong công việc của mình, cậu nhanh chóng mời thầy đến đó, cậu nói: “Thưa thầy, con đã dùng tiền của thầy để mua một cái đèn, con đã chất đầy gian phòng này bằng ánh sáng của nó, thầy xem, ánh sáng đã tràn ngập gian phòng, con hy vọng việc làm này sẽ làm vui lòng thầy”. Ông thầy vuốt đầu cậu học trò, thong thả đáp: “Bắt đầu từ đêm nay, con sẽ là môn sinh của thầy. Đây là bài học đầu tiên, con hãy nhớ lấy! Hãy biết chọn lựa những điều tốt đẹp để chất đầy trong tâm hồn mình. Những điều tốt đẹp mà con tích lũy được chính là ánh sáng tâm hồn con đó ! Ánh sáng tâm hồn là điều quý giá nhất ! Vì không ai có thể là một người tốt nếu tâm hồn họ tăm tối !”
I. ĐÔI MẮT MÙ LÒA
Khi nói đến những người không may sống trong thế giới tăm tối, người ta nghĩ ngay đến những người mù. Khi đôi mắt thể lý không thể tiếp nhận ánh sáng, đời người chìm ngập trong tăm tối, đó thật sự là một điều bất hạnh vô cùng đáng thương.
Theo tổ chức Y Tế Thế Giới WHO, hiện nay trên thế giới có khoảng 45 triệu người mù, và nếu không có những biện pháp phòng ngừa và điều trị có kết quả, con số này có thể tăng gấp đôi vào năm 2020.
Ngày nay, với sự tiến bộ của khoa học, có nhiều phát minh đã giúp cho người mù có cuộc sống tốt hơn phần nào, tuy nhiên, để vui sống, những người mù cần phải có nhiều nghị lực và đặc biệt là sự quan tâm giúp đỡ của cộng đoàn.
II. TÂM HỒN MÙ LÒA
Những người bình thường thấy được những cảnh vật xung quanh nhờ có đôi mắt sáng. Người có đôi mắt sáng thấy được mọi việc quanh mình và nhận ra ý nghĩa của nó nhờ biết suy nghĩ. Suy nghĩ bằng trí óc để hiểu biết vấn đề, suy nghĩ bằng con tim để biết chọn lựa hành động có tình có nghĩa theo đạo lý con người.
Những người điên có đôi mắt sáng, cũng thấy những gì xảy ra quanh mình, nhưng không hiểu giá trị và ý nghĩa của nó. Trí óc của họ không còn bình thường để phân biệt mọi việc, và vì thế con tim họ cũng không phân biệt được đâu là thiện – ác, chính – tà.
Những người tâm địa xấu có đôi mắt sáng cũng thấy mọi việc xảy ra quanh mình, họ cũng hiểu được ý nghĩa sự việc xảy ra, nhưng họ không muốn thấy những gì có thể làm phiền hà đến họ, và họ chỉ thấy những gì có lợi cho họ.
Người ta kể câu chuyện về một anh chàng điếc ăn xin. Anh ta chỉ biết ngửa tay xin, ngoài ra anh không nghe gì cả. Ai làm gì mặc ai. Có người thử anh, khi anh đi qua mặt xa xa, liền bỏ rơi đồng dollar xuống, tiếng “keng” phát ra từ đồng dollar rơi xuống nhỏ thôi, nhưng anh nghe thấy và nhìn lại.
Như vậy, có những người mắt vẫn sáng mà không thấy, chỉ vì họ không muốn thấy. Đó là hạng người có một tâm hồn mù lòa. Một tâm hồn tăm tối. Một tâm hồn không thể tiếp nhận ánh sáng.
“Không ai điếc bằng người không muốn nghe, không ai câm bằng người không muốn nói, không ai mù bằng người không muốn xem”. (Khổng Tử Gia Ngữ).
Nếu đồng ý rằng “đôi mắt là cửa sổ tâm hồn”, thì ánh sáng xuyên qua cửa sổ không vào bên trong loại tâm hồn này được, vì tâm hồn ấy đã đầy những thứ rác rưỡi tối tăm, không còn chỗ để đón nhận ánh sáng.
Thế giới tâm hồn này là thế giới đã đầy kín sự đen tối.
Tâm hồn đen tối không thể đón nhận ánh sáng, vì nó ngủ mê trong cõi chết, trong quyền lực tối tăm.
III. ĐÔI MẮT TÂM HỒN
Người mù, tự biết mình mù, và họ khát khao được nhận ánh sáng.
Họ nhận biết mọi việc xung quanh không chỉ bằng đôi mắt thể lý, mà còn bằng đôi mắt tâm hồn. Họ vận dụng tất cả khả năng của họ, để họ nhận ra điều mà họ muốn biết, bằng tất cả tấm lòng của họ, tấm lòng thiết tha yêu quý cuộc sống. Họ muốn ánh sáng soi rọi vào tâm hồn họ, bằng mọi cách.
Tôi nhớ đến một người phụ nữ giàu có, nhưng bị mù sau một cơn bạo bệnh. Bà có nhiều người giúp việc tốt bụng. Bà thường hỏi thăm mọi người về cuộc sống chung quanh. Bà lắng nghe họ. Bà thường xuyên giúp đỡ những người nghèo khổ, bệnh tật và những đứa trẻ bất hạnh. Nói đến tên ai, bà nhớ rõ về người đó. Nhiều lúc, bà hỏi thăm những người đã được giúp đỡ hiện nay ra sao, dù sự việc đã cách đôi ba năm. Bà thấy được cuộc sống chung quanh bà bằng đôi mắt tâm hồn thật đáng cảm phục.
Đôi mắt sáng cho con người tiếp nhận hình ảnh còn đôi mắt tâm hồn mới giúp con người có những rung động đối với những hình ảnh ấy. Người Á Đông thường coi trọng cái “Tâm”. Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài. (ND). Nếu không có đôi mắt tâm hồn, những hình ảnh quanh ta chỉ là những bức ảnh vô hồn, nó không mang một ý nghĩa gì đối với những người tạo ra nó.
Ngày nay nhiều người sống vô cảm. Xem những video clip được đưa lên Youtube, thật buồn làm sao có những cảnh học sinh đánh nhau hội đồng, xé quần xé áo nơi công cộng, nhiều người đứng chấp tay sau đích nhìn bình thản như … xem phim ! Và còn nhiều điều xảy ra thật tồi tệ trước những đôi mắt lạnh lùng của nhiều người chứng kiến.
IV. XƯA VÀ NAY
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay cho con người rất nhiều bài học. Nhân vật chánh trong câu chuyện là một người mù từ lúc bẩm sinh, ai cũng biết. Người chữa trị cho anh mù là Chúa Giê-su ai cũng rõ. Sự thật rất sáng tỏ ai cũng thấy, trừ những người không muốn thấy, là nhóm Pha-ri-sêu. Họ cứ điều tra tới, điều tra lui để mong rằng người được sáng mắt ấy không phải là anh mù bẩm sinh thường gặp hằng ngày, từ đó chứng minh là Chúa Giê-su không làm được phép lạ cho người mù bẩm sinh này được sáng mắt. Khi không thể chối cãi người mù bẩm sinh và người mù sáng mắt hôm nay chỉ là một, thì họ khép tội Chúa Giê-su vi phạm ngày sa-bat. Mục đích chánh của họ là không muốn nhìn nhận sứ mạng Mê-si-a của Đức Giê-su. Câu chuyện lòng vòng hỏi tới hỏi lui người mù được sáng mắt là vì họ muốn từ chối ánh sáng mà Chúa Giê-su đem đến cho người mù: đó không phải chỉ là thứ ánh sáng để được “nhìn thấy” cảnh vật bằng đôi mắt thể lý, nhưng là Ánh Sáng Đức Tin, ánh sáng để nhận ra Đức Giê-su chính là Con Thiên Chúa.
Họ điệu người đến Thượng Hội Đồng và hỏi: “Ông có phải là Đấng Mê-si-a thì nói cho chúng tôi biết !” Người đáp : “Tôi có nói với các ông, các ông cũng chẳng tin; tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời. Nhưng từ nay, con người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng.” Mọi người liền nói : “Vậy ông là con Thiên Chúa sao ?” Người đáp : “Đúng như các ông nói, chính tôi đây”. Họ liền nói : “Chúng ta cần gì lời chứng nữa ? Chính chúng ta vừa nghe miệng hắn nói !”. (Lc.22,66-71).
Thế giới ngày nay bị tục hóa nặng nề, và những giá trị thanh cao không còn đủ sức hấp dẫn đối với nhiều người. Người ta tìm những luận cứ lòng vòng để bảo vệ những điều lệch lạc mà từ đó nó cho phép con người sống phóng túng dễ dãi làm tâm hồn con người trở nên nông cạn và không đương đầu nổi với những thử thách khi bản năng và lòng tham bùng dậy.
Và, khát vọng mơ hồ cùng với lòng ích kỷ muôn thuở tạo nên một thế giới hổn loạn, tranh giành, hận thù, tranh chấp, thác loạn…vì không có Ánh Sáng Chân Lý soi đường.
V. ÁNH SÁNG CHÚA KI-TÔ
Từ đôi mắt mù lòa đến tiếp nhận Ánh Sáng Chúa Ki-tô là một đoạn đường dài đầy thử thách của hành trình Đức Tin. Là trong đêm tối thăm thẳm của sự chết đến bình minh của sự Sống Lại.
Người mù trong Tin Mừng hôm nay đã đón nhận Ánh Sáng Chúa Ki-tô và tuyên xưng niềm tin của mình một cách can đảm và mạnh mẽ. Anh ta không chỉ trả lời trong khuôn khổ những câu hỏi, mà còn vươn ra xa hơn, dồn đối phương vào thế lúng túng về sự hiện hiện của Chúa Giê-su.
Anh xác nhận sự thật. “Người tên là Giê-su đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: “Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa. Tôi đã đi, đã rửa và tôi nhìn thấy”.(Ga.9,11).
Bảo vệ sự thật. Anh ta đáp: “Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được!”(Ga.9,25).
Vạch rõ thái độ từ chối sự thật của đối phương : “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông vẫn không chịu nghe. Tại sao các ông còn muốn nghe lại chuyện đó nữa? Hay các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy chăng?”(Ga.9,27).
Từng bước, anh mù đã được Ánh Sáng Đức Tin soi rọi vào tâm hồn anh. Anh gặp được Thiên Chúa.
Chúa Giê-su : một người vô tội. “Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy.(Ga.9,30-31).
Chúa Giê-su : người của Thiên Chúa. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì.”(Ga.9,32-33).
Chúa Giê-su : vị ngôn sứ. Họ lại hỏi người mù: “Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh?” Anh đáp: “Người là một vị ngôn sứ!”(Ga.9,17).
Chúa Giê-su : Con Thiên Chúa. Đức Giê-su nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Người hỏi: “Anh có tin vào Con Người không?” 36 Anh đáp: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?” Đức Giê-su trả lời: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây.” Anh nói: “Thưa Ngài, tôi tin.” Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người. (Ga.9,35-38).
Hạnh phúc khi đôi mắt được sáng, chính là gặp được Chúa. Là mở lòng ra để đón nhận Ánh Sáng Đức Tin, Ánh Sáng Chúa Ki-tô.
Còn đối với người Pha-ri-sêu, cuộc hành trình Đức Tin đã dừng lại. Dừng lại bên bờ vực tội lỗi. Lòng họ còn đó đầy ứ kiêu căng tự phụ nên tâm hồn họ cũng vẫn còn chìm trong tăm tối. “Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?” Rồi họ trục xuất anh. (Ga.9,34).
Mắt họ vẫn sáng, nhưng tâm hồn tăm tối, nên bước đi của họ lạc lối, không phải là về miền Đất Hứa, mà về miền đất chết, vì họ cứ ngủ vùi trong bóng đêm tội lỗi.
Đức Giê-su bảo họ: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: “Chúng tôi thấy”, nên tội các ông vẫn còn!” (Ga.9,41).
Cuộc hành trình Đức Tin của nhân loại còn đó rất nhiều thử thách. Để ánh sáng Lời Chúa soi rọi vào từng tâm hồn mỗi con người không dễ dàng gì. Mỗi người Ki-tô hữu bằng tất cả khả năng của mình, cố gắng đem Ánh Sáng Lời Chúa chiếu soi cho toàn thế giới, trong niềm tin yêu và hy vọng Tất Cả Là Hồng Ân Thiên Chúa.
Lạy Chúa,
Xin mở mắt con, soi sáng lòng trí con,
nâng đỡ, dắt dìu con,
để con luôn bước đi trong Ánh Sáng của Chúa,
về miền Tình Yêu Vĩnh Hằng của Ngài. Amen.
Lm. Antôn NGUYỄN VĂN TIẾNG