Tìm hiểu về tục gói bánh chưng ngày Tết ở Việt Nam
Ở Việt Nam, việc thờ bánh chưng vào dịp Tết Nguyên đán phản ánh được nhiều bình diện cuộc sống. Cùng tìm hiểu về tục gói bánh chưng vào dịp Tết dưới đây.
Thờ bánh chưng ngày Tết trở thành nét văn hóa truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam, được lưu truyền từ xa xưa (tục truyền từ đời Hùng vương thứ sáu) đến tận ngày nay. Tục gói bánh chưng thờ cúng tổ tiên nhằm tôn vinh khẳng định tầm quan trọng của cây lúa và thiên nhiên trong nền văn hóa lúa nước.
Tết Nguyên Đán sắp về. Trong bài viết này chúng ta cùng tìm hiểu về tục gói bánh chưng ngày Tết Nguyên đán và những ý nghĩa biểu trưng (khuôn hình) của bánh chưng, bánh dày (bánh tét, bánh tày).
1. Biểu trưng của vũ trụ – nhân sinh quan
Những ý nghĩa biểu trưng về vũ trụ – nhân sinh quan qua bánh chưng, bánh dầy được thể hiện từ tên gọi, hình thể cho đến nguyên liệu làm nên nó. Trước hết, tìm hiểu bánh chưng với tư cách như một thuật ngữ. Ngỡ tưởng loại bánh này trong quá trình nấu chín, người ta phải luộc lên, nhưng nếu là “luộc” thì có gì đáng bàn. Song gọi là bánh chưng có thể rơi vào trường hợp: trong quá trình nấu bánh, người ta không cho nước tiếp xúc với vật liệu được luộc (tức là bánh), thì ắt có lẽ là hình thức hấp hoặc chưng (nấu cách thuỷ). Bởi vậy, giải thích cho tên gọi bánh chưng theo cách này có vẻ rất hợp lý.
Tìm hiểu về tục gói bánh chưng ngày Tết
2. Nguồn gốc tục gói bánh chưng, bánh dày
Theo truyền thuyết “Bánh chưng, bánh dày”, tục gói bánh chưng bắt nguồn từ đời vua Hùng Vương thứ 6. Nhân dịp giỗ tổ vua Hùng đã triệp tập các người con đến và truyền rằng: người con nào tìm được lễ vật hợp ý nhà Hùng vương sẽ được vua cha nhường ngôi.
Hầu hết các hoàng tử lên rừng xuống biển tìm sản vật quý hiếm. Hoàng tử Lang Liêu là người con nghèo khó nhất, không có khả năng kiếm những đồ lễ quý hiếm, chàng đã dùng những nông sản hết sức thân thuộc như gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn và lá dong để tạo ra hai loại bánh chưng và bánh dày tượng trưng cho trời và đất làm lễ vật dâng vua. Lễ vật của Lang Liêu rất hợp ý vua Hùng, và vua đã truyền ngôi cho Lang Liêu.
Kể từ đó tục gói bánh chưng, bánh dày được lưu truyền trong nhân gian và là những lễ vật không thể thiếu khi dâng cúng tổ tiên, thể hiện tấm lòng uống nước nhớ nguồn của hậu thế.
3. Tục gói bánh chưng – niềm tự hào ẩm thực Việt
Trong những ngày Tết đến, xuân về, những hương vị và những vật phẩm đã trở thành quen thuộc trong dịp tết như: thịt mỡ, dưa hành, bày trí trong nhà một cành đào hay một cành mai, một bức câu đối được cắt làm đôi treo cân xứng hai bên xà nhà. Trên bàn thờ tổ tiên bày trí đủ các loại: mâm ngũ quả, kẹo bánh, mứt, rượu,… đặc biệt là bánh chưng. Tất cả đã tạo nên một không khí, không gian rất “Tết”!
Bánh chưng sau khi đã thờ cúng tổ tiên xong, được dọn xuống để mọi người cùng thưởng thức. Hẳn chúng ta sẽ không ngớt lời tấm tắc rằng bánh chưng đúng là một trong những loại thức ăn vừa ngon, béo, thơm và trông thật mỹ quan! Nó đã tôn lên niềm tự hào về văn hóa ẩm thực của người Việt Nam suốt chiều dài lịch sử. Đó là loại thức ăn vừa độc đáo, vừa gần gũi. Độc đáo ở chỗ: là loại bánh do chính người Việt Nam (Hoàng tử Lang Liêu – đời Hùng Vương thứ 6) sáng tạo nên (theo cách giải thích huyền sử về nguồn gốc bánh chưng). Từ xưa tới nay, bánh chưng, bánh dày Việt Nam không lẫn, không phỏng theo bất kỳ thứ bánh nào của các quốc gia khác. Nó là loại thức ăn rất gần gũi với người Việt Nam, được làm nên từ những nguyên liệu không đến nỗi hiếm hoi trong dân gian như: gạo nếp, thịt heo, hành, tiêu, đậu xanh, lá dong rừng (hoặc lá chuối, lá tre…), lạt giang… và có khi thêm những nguyên liệu phụ như: quả chùm phù (lúc chín có màu đỏ), quả gấc… để tăng phẩm màu cho nhân bánh thêm đẹp.
Tục gói bánh chưng là một nét văn hóa độc đáo của người Việt
Ngẫm ra, phong tục truyền thống thờ cúng và thưởng thức bánh chưng ngày Tết của người Việt Nam thật lắm điều thú vị. Nó vừa mang nét văn hóa tín ngưỡng tâm linh, vừa mang nét văn hóa ẩm thực. Cả hai cùng quyện lẫn vào nhau trong một chỉnh thể cân xứng giữa một bên là vẻ hình thức bề ngoài, một bên là những nguyên liệu bên trong của bánh chưng. Chỉnh thể cân xứng, thống nhất đó được thể hiện bằng “quy trình”: gói, thờ cúng và thưởng thức bánh chưng như sự mặc định sở hữu về một trong những nét văn hóa đặc trưng của dân tộc Việt Nam.
Trong những ngày cuối cùng của tháng Chạp hàng năm, mọi người từ miền xuôi cho tới miền ngược, từ ven biển, đồng bằng cho tới vùng cao, từ nông thôn cho tới thành thị, thậm chí cả những kiều bào Việt Nam ở nước ngoài đều hòa chung bầu không khí an lành: đón Tết Nguyên đán. Mọi người lại hồ hởi bắt tay vào thực hiện phong tục gói bánh chưng thờ Tết. Nếu những gia đình ở đô thị vì bận công việc, buôn bán, không có thì giờ để gói bánh thì họ lại đặt mua. Thế là “thịt mỡ”, “dưa hành”, “câu đối đỏ”, mai (đào), kẹo, mứt, rượu cùng bánh chưng xanh lại được bày biện lên bàn thờ của nhà nhà trên dải đất hình cong chữ S này trong một nét văn hóa, một nét phong tục truyền thống đặc trưng rất Việt Nam.
Sẽ không có một nơi nào trên Thế giới có được sự độc đáo với tục gói bánh chưng xanh cúng tổ tiên ngày Tết như dân tộc Việt Nam. Nét văn hóa ấy đã trở thành một giá trị truyền thống tồn tại mãi mãi với thời gian, ngấm vào máu và tâm trí của mỗi người con đất Việt khi Tết đến xuân về.
Theo Lam sao.
http://tachcaphe.com/tim-hieu