Marie de Hennezel: Sống với điều vô hình là trải nghiệm chung của mọi người
by Phanxicovn
Những giấc mơ, những trùng hợp, những trực giác nội tâm, mối quan hệ với người đã khuất của chúng ta… Trong quyển sách mới nhất của bà Marie de Hennezel, nhà tâm lý trị liệu, bà khám phá tất cả những nhận thức vốn có ở con người, chứng minh cho mối liên hệ liên tục của chúng ta với điều vô hình.
lavie.fr, Élisabeth Marshall, 2021-09-30
Marie de Hennezel, ERWAN FLOC’H
Chúng tôi gặp bà trong căn hộ dưới các mái nhà Paris để nói về điều vô hình. Ngôi nhà yên bình ấm áp là nơi sinh sống của tất cả những hiện diện này, đánh dấu cuộc hành trình cá nhân của nhà tâm lý học và trị liệu tâm lý Marie de Hennezel. Một thiên thần bằng gỗ mạ vàng với nụ cười bí ẩn ở giữa nhà, đó là từ mẹ của bà.
Dọc các bức tường, giữa hai góc nhìn bầu trời là các biểu tượng, các chân dung; một phi công trẻ, một người chú làm việc với Đại Tướng De Gaulle; các bức tranh của ông nội, bức khắc của bà nội yêu quý mà bà thường xin được che chở. Dưới các hình ảnh tốt lành được đề cập trong quyển sách mới nhất của bà, Sống với điều vô hình (Vivre avec l’invisible, Robert Laffont / Versilio), một bản tường thuật những kinh nghiệm thu thập được trong hơn mười năm, qua quá trình gặp gỡ và đồng hành.
“Sống với điều vô hình” như tựa đề quyển sách của bà có là chuyện tự nhiên đối với con người không?” Chúng ta tất cả đều có khả năng này trong người mình không?
Bà Marie de Hennezel: Đây không phải chỉ là một khả năng, đây là thực tế. Tôi đã phát hiện ra nó! Nhiều người sống với điều vô hình, nhưng họ không nói vì họ sợ bị hiểu lầm và bị gán cho là không hợp lý. Đó là một chủ đề cấm kỵ. Chỉ khi tôi bắt đầu chia sẻ kinh nghiệm bản thân, tôi mới nhận những lời chứng từ nhiều nguồn khác nhau. Trải nghiệm này là phổ biến, nhưng trong xã hội duy lý Descartes của chúng ta, mọi người đều trải nghiệm điều này một cách bí mật.
Làm thế nào để sự hiện diện vô hình này tự thể hiện?
Mỗi người đều đặt những thực tế rất khác nhau đằng sau từ này. Những giấc mơ, những biểu hiện của vô thức là một phần của nó. Một số là những điềm báo trước, là âm vang của một cuộc họp hoặc một sự kiện sẽ xảy ra trong thực tế.
Đôi khi đây là những trùng hợp đơn giản: bạn mơ hoặc nghĩ về một người nào đó mà bạn không gặp từ lâu, người đó gọi cho bạn trong cùng một ngày. Gần đây tôi trải nghiệm một ví dụ về sự trùng hợp này giữa những suy nghĩ và thực tế của chúng ta.
Để viết quyển sách tiếp theo của tôi, một quyển từ điển về tình yêu cho sự cô độc, tôi đã phát hiện ra ở Đảo Yeu (Île d’Yeu), nơi tôi sống một phần đời, có những căn lều biệt lập trước mặt biển. Những ngày gần đây, khi kết thúc một buổi hội thảo, một người tham dự đến nói chuyện với tôi, ông nói về mối liên kết của tôi với Đảo Yeu và cho tôi xem một bức ảnh căn lều ngư dân ông có ở đó. Ông đề nghị tôi đến đó ở để viết lách! Đây là một ví dụ về mối liên hệ vô hình này giữa một ý nghĩ có trong đầu và một yếu tố thực tế có thể thực hiện ước muốn của mình.
Bà nói đến một tiếng nói nội tâm nhỏ nhoi thì thầm trong lòng để hướng dẫn. Khoa phân tâm học nói gì về những dạng trực giác này?
Chúng ta biết trước điều trong lòng, nhưng chúng ta không nhận thức được tất cả những gì chúng ta biết. Sự hiểu biết nội tâm này thỉnh thoảng thể hiện dưới dạng trực giác. Đó là tiếng nói nho nhỏ chúng ta nghe trong tận sâu thẳm trong lòng: ví dụ điều gì đó nói với tôi, tôi nên đi dự cuộc họp này hoặc tôi không nên đi chuyến du lịch kia.
Là người theo thuyết của tâm lý gia Jung, tôi hiểu, tất cả chúng ta đều có vô thức cá nhân, vô thức gia đình và cả vô thức tập thể. Ký ức và kiến thức về sự tiến hóa và số phận của chúng ta dần dần được chiếu sáng qua cuộc sống, qua giấc mơ, qua những trùng hợp, những sự kiện. Đây là điều mà Jung gọi là “quá trình cá nhân hóa”, một “thiên chức” phải được trải nghiệm và hoàn thành thông qua sự tồn tại của chúng ta. Nếu Freud nhìn thấy trong vô thức biểu hiện của người bị kìm nén, thì Jung nói rộng hơn, trong tâm hệ có một phần của tâm hồn và một phần của điều vô hình.
Bà có nhận thấy trẻ con có mối liên kết tự phát này với điều vô hình, như một “kiến thức từ bên trong” không?
Đây là một diễn tả tuyệt vời của bạn tôi, bà Sevim Riedinger, nhà trị liệu theo tâm lý gia Jung, bà trị liệu cho các trẻ em thuộc mọi tầng lớp xã hội, trong đó có nhiều trẻ em thuộc các gia đình theo thuyết bất khả tri và vô thần. Bà nhận thấy trẻ con “biết”, chúng nhận thức được những điều mà người lớn không còn cảm nhận, nhưng đối với chúng, những điều này lại là tự nhiên: chẳng hạn chúng ‘sáng chế’ ra các bạn đồng hành chúng tưởng tượng để nói chuyện.
Chỉ đến khi 7-8 tuổi, tuổi của “lý trí” thì chúng sẽ tách ra khỏi “kiến thức nội tâm” này và đi vào lãnh vực lý trí hơn. Chẳng hạn đứa trẻ sẽ nhận khía cạnh dứt khoát của cái chết. Khi chúng trên 8 tuổi, nếu chúng chỉ ở trong “kiến thức nội tâm” thì tình trạng này có thể làm cho quan hệ của chúng với thực tế bị xáo trộn.
Theo bà, khi cuối đời, người lớn tuổi có thể tìm lại khả năng liên quan đến nội tâm này không?
Khi chúng ta lớn tuổi, con người nội tâm, con người chiêm ngắm sẽ chiếm nhiều chỗ hơn trong cuộc đời. Từ đó, chúng ta nhận thức được nhiều thứ hơn là khi chúng ta sống trong năng động, khi lý trí thống trị. Chúng ta có một nhận thức tốt hơn, một khả năng để cảm thấy vượt ra ngoài chính mình, gọi là khả năng tâm thể, một khả năng cảm nhận tinh tế, những người sống chiêm niệm càng tinh tế thì khả năng này càng mạnh, và được gọi là hapsis.
Một bệnh nhân nằm trên giường bệnh sẽ nhạy cảm với cách một người nào đó khi họ bước chân vào phòng, tương tự với trạng thái nội tâm của nữ y tá. Trong vũ trụ thu hẹp này, họ có khả năng tiếp thu nhạy bén hơn khi họ còn hoạt động và khỏe mạnh. Họ có khả năng nhân bản để kéo dài trong không gian. Đó cũng là điều các nhà trị liệu xương trải nghiệm (ostéopathe). Đầu của bạn ở trong bàn tay của họ, họ dùng kỹ thuật cảm nhận tinh tế hapsis của mình để cảm nhận sự rối loạn chức năng trong một bộ phận khác trên cơ thể của bạn.
Cuối cùng, chính phần kéo dài vô hình này mà những người dễ bị tổn thương hoặc khuyết tật mới có thể sống. Tôi kết thúc quyển sách bằng lời tri ân đến những người người mù… những người cuối cùng lại là những người thấy.
Xin bà cho chúng tôi biết mối liên kết vô hình này giữa người sống và người chết. Quyển sách của bà nhấn mạnh nhiều đến “những làn sóng vô hình” này. Đó là ai?
Tôi mượn thành ngữ này của bà Sophie Davant. “Nhóm những điều vô hình” của tôi là tất cả những che chở mà chúng ta có thể cầu xin trong một vài giai đoạn khó khăn của cuộc sống. Một vị thánh, một người ông kính yêu, một thiên thần hộ mệnh… Thiên thần là ẩn dụ cho sự bảo vệ vô hình mà tất cả chúng ta cần, thiên thần là một phần của văn hóa tôn giáo nhưng cũng ảnh hưởng đến những người không có tôn giáo.
Ai mà chưa từng xin những sinh linh vô hình bảo vệ mình? Ông giám đốc nhà xuất bản của tôi, một người rất lý trí, đặc biệt ông không tin đạo, ông có bức hình bà ngoại để trên góc bàn làm việc. Ông nói chuyện với bà và xin bà giúp đỡ.
Trong nhà của tôi, tất cả những “người vô hình” của tôi đều ở đó, bằng cách này hay cách khác. Cộng đồng các tổ tiên, những người thân đã khuất, nhưng cũng là những người mà tôi đi theo cho đến cuối cuộc đời và những người đã trấn an tôi: “Marie, khi tôi ở phía bên kia, tôi sẽ giúp bạn!”.
Họ đặc biệt giúp tôi khi tôi nói về chủ đề cuối đời trong các cuộc hội thảo. Tôi xin họ đặt vào môi miệng tôi những lời thích hợp để tôi chia sẻ tốt nhất trải nghiệm này và làm cho thính giả nhận thức được tầm quan trọng của việc đồng hành với người sắp qua đời.
Về sự hiện diện của những người đã khuất, tôi nhận được rất nhiều chứng từ. Mối quan hệ này độc lập với các nền văn hóa và niềm tin tôn giáo. Sự hiệp thông của các thánh trong kitô giáo là sự không phân tách giữa thế giới của người sống và người chết.
Bà nhận được lòng tin tưởng vào điều vô hình từ giáo dục của bà, từ trải nghiệm hàng ngày, nhưng bà không tìm cách để chứng minh điều này?
Trong quyển sách này, tôi không khẳng định, tôi không cố gắng chứng minh bất cứ điều gì. Tôi chỉ ghi nhận nhiều người trong chúng ta sống mối quan hệ này. Như nhà thơ người Đức Rilke viết, “chúng ta bị đóng khung bởi điều vô hình.” Và điều bí ẩn này, như cố tổng thống Pháp François Mitterrand đã nói với tôi, “chúng ta sẽ không bao giờ chứng minh được điều này, chúng ta sống với nó.”
Bà đã nói chuyện với cố tổng thống Mitterrand “về điều vô hình” và bà đã tiếp tục nói chuyện trong nhiều năm cho đến khi ông qua đời. Bà cũng đã nói những chuyện này trong một quyển sách khác Tin vào sức mạnh của tinh thần (Croire aux forces de l’esprit, nxb. Pocket). Ở khía cạnh nào cố tổng thống đã quan tâm đặc biệt đến vấn đề này?
Cố tổng thống Mitterand rất nhạy cảm với năng lượng của thiên nhiên, cây cối, của đá, năng lượng vũ trụ và những bí ẩn xuyên qua thế giới. Đó cũng là những nơi linh thiêng, cho dù đó là tảng đá của Solutré mà ông leo hàng năm hay nơi đại kết như Taizé. Chúng tôi có cùng điểm chung tâm linh này, mặc dù chúng tôi chưa bao giờ cùng nhau đến đó.
Chính ở Taizé, sau giai đoạn bác bỏ chủ nghĩa giáo điều của công giáo mà tôi được nuôi dạy, tôi đã trở về với cầu nguyện. Đây là kinh nghiệm thuộc thứ trật cảm giác cơ thể, nhận thức này tôi có được khi đi vào tận thâm sâu tâm hồn và kết nối tôi với điều vô hình. Tôi nhớ tôi đã khóc và Sư huynh Roger đã nói với tôi: “Bà đã sống trải nghiệm tuôn trào tinh thần.” Cảm xúc của chúng ta không chỉ là tình cảm mà còn là tinh thần.
Chúng ta đang nói về những người bảo vệ, hướng dẫn, đồng hành, nhưng có thể có nguy cơ mở lối cho điều vô hình không?
Thực sự có một mối nguy hiểm trong việc tìm kiếm điều vô hình. Để bản thân mình được hướng dẫn, nhờ một người thân đã khuất che chở mình, được! Nhưng tìm sức mạnh của lực huyền bí thì không! Có một phần ý chí phải rèn luyện để không mở cánh cửa ra cho nỗi sợ hãi của bạn.
Với những người nghĩ mình là nạn nhân của số phận, những người mong manh nhất mà tôi đã gặp trong những năm tháng hành nghề ở bệnh viện, chúng tôi có thể dạy cho họ sự cần thiết phải xây một lớp bọc bảo vệ tinh thần, bằng cách nhờ đến sự hiện diện một hình ảnh vô hình nhân từ như một thiên thần chẳng hạn.
Trong một buổi họp y tế ở thành phố Montpellier, bác sĩ của Đức Đạt Lai Lạt Ma đã truyền cho chúng tôi phương pháp tu tập phật giáo này: hình dung cơ thể mình tràn đầy ánh sáng và mở rộng sự trong sáng này xung quanh mình như một lớp bọc bảo vệ. Những nghi thức nhỏ này không loại trừ sự bảo vệ hợp lý, nhưng làm cho chúng ta tự tin hơn. Chúng ta biết cảm xúc đã đóng vai trò quan trọng như thế nào trên sức khoẻ tinh thần của chúng ta.
Chúng ta nên nghĩ gì về những nhà ngoại cảm và những người có thiên nhãn?
Tất cả chúng ta đều có một hạt nhân gọi là “loạn tâm thần” trong tâm hồn, một không gian và một kiến thức mà chúng ta bị ngắt kết nối với thực tế, các nhà phân tâm học trường phái anglo-saxon đều nói về điều này. Khi lớn lên, chúng ta tách ra khỏi nó, tạo một rào cản giữa không gian này và chúng ta. Nếu không có nó, chúng ta sẽ không thể thích ứng với thực tế cuộc sống.
Nhưng có một số người tách ra khỏi nó một phần, và thông qua một vài “mảng” vẫn còn mở, sẽ cho thấy một trực giác sâu sắc hơn nhiều so với những người khác. Chúng tôi rất muốn đi gặp họ… Lời khuyên của tôi là hãy tin tưởng vào bản thân nhiều hơn, lắng nghe tiếng nói bên trong của chính mình.
Chúng ta không cần nhà ngoại cảm để giao tiếp với người đã khuất, để kết nối với người thân yêu mà chúng ta đã có liên hệ suốt đời. Chúng ta chỉ cần nói chuyện với họ. Chúng ta nhận được câu trả lời qua giấc mơ, qua cảm xúc nội tâm. Chúng ta phải có nhiều tự do nội tâm để lắng nghe họ.
Về cơ bản, quyển sách của tôi viết về mối liên kết, dù đó là địa điểm, là người thân yêu hay tâm linh, những liên kết này là một phần hạnh phúc của chúng ta. Tình yêu được gieo vào lòng con người và tình yêu này không bao giờ ngừng đi tìm lại niềm vui qua việc giao tiếp với người khác. Sống với bí ẩn này làm cho chúng ta hạnh phúc và tất cả mọi người đều có thể chia sẻ kinh nghiệm này.
Sống với điều vô hình (Vivre avec l’invisible, nxb. Robert Laffont / Versilio)
Bà Marie de Hennezel tiếp tục viết quyển nhật ký với điều vô hình mà bà đã viết trong gần hai mươi năm, bà thu thập các chứng từ của bạn bè, các bệnh nhân của bà, các mối quan hệ nghề nghiệp nhưng cũng rút từ các nguồn văn học và phân tâm học. Một tường thuật hấp dẫn về những trải nghiệm mà không tìm cách chứng minh bất cứ điều gì, chỉ nói lên sự phong phú nội tâm của con người.
Marta An Nguyễn dịch