Bánh mì sáng | 08.08.2023 | Thánh Đaminh, Linh mục
Thánh Đaminh còn gọi là thánh Đôminicô (tiếng Anh: Saint Dominic, tiếng Tây Ban Nha: Santo Domingo; 1170 – 6 tháng 8 năm 1221) là người sáng lập ra Dòng Anh Em Giảng Thuyết hay còn gọi là Dòng Đaminh. Đaminh còn là vị thánh quan thầy của các nhà thiên văn học. Với biểu tượng chú chó ngậm bó đuốc.
Tiểu sử
Đaminh (Domingo) sinh năm 1170 tại Calaruega, thuộc dòng tộc Guzmán, nên được gọi là Domingo Félix de Guzmán. Guzman là một dòng tộc danh tiếng tại Tây Ban Nha vào thời Trung Cổ. Theo tường thuật của Jordan thành Saxony, người chuyên nghiên cứu tiểu sử của Thánh Đaminh, thì trước khi Đaminh ra đời, mẹ ông làm một cuộc hành hương đến Silos, bà mơ thấy mình đẻ ra một con chó ngậm bó đuốc đang cháy sáng và mang lửa đến khắp thế giới[2]. Trong ngày Thanh Tẩy cho ông, bà mẹ đỡ đầu lại trông thấy trên đầu ông có một ngôi sao sáng, chiếu tỏa chung quanh. Hôm ấy là ngày Chúa Nhật nên ông được đặt tên là Domingo (tiếng Tây Ban Nha, Domingo là ngày Chủ Nhật). Có lẽ nguồn này là đáng tin cậy, bởi lẽ Dòng Đaminh theo tiếng Latinh là Dominicanus, đây là một cách chơi chữ tách từ cụm từ Domini canis, nghĩa là “Con chó của Thiên Chúa”.
Học tập và linh mục
Năm 7 tuổi, Đaminh được gửi đến ở với người cậu là linh mục đang coi xứ gần Caleruega. Năm 14 tuổi, Đaminh từ giã gia đình và cha mẹ để lên học tại trường Palencia, là trường học nổi tiếng nhất tại Tây Ban Nha lúc bấy giờ. Ngay từ hồi nhỏ, Đaminh đã biết dung hòa việc học hành với cầu nguyện và các bổn phận tông đồ. Hết trung học, Đa Minh xin đi tu và có lẽ được truyền chức linh mục vào năm 1194. Sau đó, ông làm kinh sĩ tại Nhà thờ chính tòa Osma, chuyên lo đọc kinh thay cho toàn giáo phận. Với lòng đạo đức và nhiệt thành, chỉ 2 năm sau, ông được chỉ định làm bề trên hội kinh sĩ.
Năm 1203 (hoặc 1204), ông tháp tùng giám mục Diego de Acebo của giáo phận Osma làm một nhiệm vụ ngoại giao cho vua Alfonso VIII xứ Castile, để hỏi cưới công chúa Đan Mạch cho thái tử Ferdinand. Phái đoàn đến Đan Mạch băng qua Aragon và miền Nam nước Pháp. Tại đây, Đa Minh và Diego có gặp nhóm Cathars – một giáo phái mà Giáo hội Công giáo Rôma coi dị giáo. Nhóm Cathars đã thụ phong linh mục cho nam giới lẫn phụ nữ, các giáo sĩ không phục tùng giáo hoàng. Bên Đan Mạch chấp thuận hôn ước nhưng ở chuyến đi thứ hai, công chúa Đan Mạch bỗng nhiên qua đời, vì vậy, Diego và Đaminh trở về qua ngả đường Roma và Cîteaux.
Lập dòng
Năm 1208, Giáo hoàng Innôcentê III đã phát động một cuộc thập tự chinh chống lại các giáo phái dị giáo do bá tước Simon IV dẫn đầu. Đaminh đi theo đạo quân này để rao giảng cho những người lạc giáo quay về với Công giáo nhưng ông không thành công lắm. Vào năm 1214, bá tước Simon tặng cho Đaminh một lâu đài ở Casseneuil. Ông cùng với sáu môn đệ đã thành lập một tu hội tận tụy cho việc hoán cải người lạc giáo Albigensian. Trong Công đồng Latêranô IV năm 1215, Đa Minh thất bại trong việc xin giáo quyền phê chuẩn tu hội của ông, nhưng năm sau, Giáo hoàng Hônôriô III đã chuẩn y, và Dòng Anh Em Giảng Thuyết (Ordo Praedicatorum”, viết tắt: O.P.) được ra đời, về sau người ta thường gọi là Dòng Đaminh[3].
Cuối đời
Đaminh dùng quãng đời còn lại để tổ chức dòng, đi khắp nước Ý, Tây Ban Nha và Pháp để rao giảng và thu hút các thành viên mới, cũng như thiết lập các trung tâm của dòng. Dòng Anh Em Giảng Thuyết đã thành công trong việc hoán cải nhiều người khi họ áp dụng quan niệm là hài hoà giữa đời sống trí thức với nhu cầu của quần chúng. Năm 1220, tại Bologna, Đaminh triệu tập hội đồng chung của dòng. Năm sau, trong chuyến rao giảng ở Hungary, ông lâm bệnh và buộc phải trở về Bologna và qua đời tại đó vào ngày 6 tháng 8 năm 1221. (trích từ https://vi.wikipedia.org/wiki/Thanh_Da_Minh)
(Martha đọc)
Không có một ngôn sứ nào như Môsê cả ; tại sao các ngươi không sợ nói động đến ông ấy.
Bài trích sách Dân Số.
1 Hồi ấy, bà Mi-ri-am và ông A-ha-ron phản đối ông Mô-sê về người đàn bà xứ Cút mà ông đã lấy, vì ông đã lấy một người đàn bà xứ Cút làm vợ. 2 Họ nói : “Đức Chúa chỉ phán với một mình Mô-sê sao ? Người đã chẳng phán với cả chúng ta nữa ư ?” Và Đức Chúa nghe được. 3 Ông Mô-sê là người hiền lành nhất đời.
4 Đột nhiên Đức Chúa phán với ông Mô-sê, ông A-ha-ron và bà Mi-ri-am : “Cả ba hãy đi ra Lều Hội Ngộ !” Và ba người đã ra. 5 Đức Chúa ngự xuống giữa đám mây và dừng lại ở cửa Lều. Người gọi ông A-ha-ron và bà Mi-ri-am, và hai người đi ra. 6 Người phán : “Hãy nghe Ta nói đây !
Nếu trong các ngươi có ai là ngôn sứ,
thì Ta, Đức Chúa, Ta sẽ tỏ mình ra cho nó trong thị kiến,
hoặc sẽ phán với nó trong giấc mộng.
7Nhưng với Mô-sê tôi tớ Ta thì khác :
tất cả nhà Ta, Ta đã trao cho nó.
8Ta nói với nó trực diện, nhãn tiền, chứ không nói bí ẩn,
và hình dáng Đức Chúa, nó được ngắm nhìn.
Vậy tại sao các ngươi không sợ nói động đến Mô-sê, tôi tớ Ta ?”
9 Đức Chúa nổi cơn thịnh nộ với họ mà bỏ đi. 10 Khi mây bốc lên khỏi Lều, thì bà Mi-ri-am bị cùi, mốc thếch như tuyết ; ông A-ha-ron quay nhìn bà Mi-ri-am, thì kìa bà đã bị cùi.
11 Ông A-ha-ron nói với ông Mô-sê : “Lỗi tại tôi, thưa ngài, nhưng xin ngài đừng kết tội chúng tôi ; chúng tôi đã dại dột mà phạm lỗi và đáng tội. 12 Xin đừng để cho cô ấy nên như đứa chết yểu, vừa lọt lòng mẹ đã bị ăn mòn mất một nửa phần thịt mình rồi.”
13 Ông Mô-sê kêu cầu lên Đức Chúa rằng : “Ôi, lạy Chúa, xin chữa lành cô ấy !”
Xin Ngài truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài.
✠ Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Mátthêu.
22 Sau khi dân chúng được ăn no nê, Đức Giê-su liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. 23 Giải tán họ xong, Người lên núi riêng một mình mà cầu nguyện. Tối đến Người vẫn ở đó một mình. 24 Còn chiếc thuyền thì đã ra xa bờ đến cả mấy cây số, bị sóng đánh vì ngược gió. 25 Vào khoảng canh tư, Người đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ. 26 Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau : “Ma đấy !”, và sợ hãi la lên. 27 Đức Giê-su liền bảo các ông : “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ !” 28 Ông Phê-rô liền thưa với Người : “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài.” 29 Đức Giê-su bảo ông : “Cứ đến !” Ông Phê-rô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giê-su. 30 Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên : “Thưa Ngài, xin cứu con với !” 31 Đức Giê-su liền đưa tay nắm lấy ông và nói : “Hỡi kẻ kém lòng tin ! Sao lại hoài nghi ?” 32 Khi thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng. 33 Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói : “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa !”
34 Khi qua biển rồi, thầy trò lên đất liền, vào Ghen-nê-xa-rét. 35 Dân địa phương nhận ra Đức Giê-su, liền tung tin ra khắp vùng, và người ta đem tất cả những kẻ đau ốm đến với Người. 36 Họ nài xin Người cho họ chỉ sờ vào tua áo choàng của Người thôi, và ai đã sờ vào thì đều được cứu chữa.
Mais aussitôt Jésus leur parla: «Confiance ! c’est moi ; n’ayez plus peur!» Pierre prit alors la parole: «Seigneur, si c’est bien toi, ordonne-moi de venir vers toi sur les eaux.» Jésus lui dit: «Viens!» Pierre descendit de la barque et marcha sur les eaux pour aller vers Jésus. (Mt 14,22-36)