Đánh giá sách “Quy hoạch lưu vực hạ lưu sông Mê Kông: Can thiệp theo phương diện xã hội trên sông Se San”, Tiến sĩ Ly Thim
James Lập *
Lời Quán Ven Đường: Kính gởi đến các bạn bài đánh giá sách “Quy hoạch lưu vực hạ lưu sông Mê Kông: Can thiệp theo phương diện xã hội trên sông Se San” (tác giả Tiến sĩ Ly Thim). Bài đánh giá nầy của James Lập (cựu chủng sinh Philipphê Minh Vĩnh Long). (* Tác giả trao đổi thông tin: James Lập, Khoa Ngôn ngữ và Văn học Đông Á, Đại học Columbia, New York, NY 10027, Hoa Kỳ, E-mail: [email protected])
Lời giới thiệu: Ly Thim, gốc Campuchia, tốt nghiệp Tiến sĩ đại học Bonn, Đức Quốc và xuất bản sách “Quy hoạch lưu vực hạ lưu sông Mê Kông: Can thiệp theo phương diện xã hội trên sông Se San” dựa trên luận án tiến sĩ của ông. Đại học Princeton, một trong 8 đại học Ivy League ở miền Đông Bắc Mỹ (Brown (RI), Columbia (NY), Cornell (NY), Dartmouth (NH), Harvard (MA), Princeton (NJ), U Penn (PA), Yale (CT)) mời James Lập đánh giá sách này. Bài viết này chỉ đăng trên mạng riêng của tổ chức De Gruyter. Phải là hội viên hoặc đóng lệ phí mới được xem bài.
Lời khuyên thực tế: khi đọc bất cứ sách hay tài liệu nào, dù của Tiến sĩ hay nhà nghiên cứu thật, chúng ta cũng nên xét lại các nguồn tài liệu xem có đáng tin không chớ đừng vội tin ngay.
“Quy hoạch lưu vực hạ lưu sông Mê Kông” là một nỗ lực đầy tham vọng, nhưng thiếu sót để mô tả các yếu tố đã định hình sự phát triển của thủy điện ở khu vực biên giới bao gồm miền tây Việt Nam và miền đông Campuchia. Dựa trên luận án tiến sĩ của TS Lý Thim năm 2010 tại Đại học Bonn, ‘Quy hoạch lưu vực hạ lưu sông Mê Kông” bao gồm một bản tóm tắt, sáu chương, một kết luận và một phần về các nguồn. Khi phân tích quản lý lưu vực sông Se San, TS Thim áp dụng phương pháp tiếp cận theo hướng diễn viên được phát triển chủ yếu do Norman Long (2001)[1] và các đồng nghiệp của ông này. Các tác nhân xã hội và giao diện của họ là những tính năng trung tâm của phương pháp tiếp cận theo hướng diễn viên này. TS Thim sử dụng nó bằng cách mô tả họ như những nhân vật chính và phân tích quy trình làm việc, quy trình lập kế hoạch và hậu quả địa phương của sự phát triển trong lưu vực sông Se San. Tập trung chính của tác giả liên quan đến đập nước thác Yali trên thượng lưu sông Se San ở Việt Nam và tác động tiêu cực ở hạ lưu ở Campuchia. Nghiên cứu trường hợp sông Sesan rất phổ biến đối với các học giả và các nhà nghiên cứu vì đây là trường hợp xuyên biên giới ở Đông Nam Á, nơi có một số lượng lớn các lưu vực sông như thế.
Các sự kiện địa lý chính trị gần đây ở Đông Dương đã đóng một vai trò quan trọng ở châu Á, đặc biệt là trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Từ thời điểm Hiệp định Geneva 1954 đến tháng 4 năm 1975, Thác Yali là một phần của Việt Nam Cộng hòa, trước khi thuôc về Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thống nhất. Sự thay đổi chính trị này ở Việt Nam và Đông Dương cũng được phản ánh trong sự phát triển của Ủy ban Mê Kông (1957-1977) thành Ủy ban lâm thời Mê Kông (1978-1994), và sau đó là Ủy ban sông Mê Kông (1995 đến nay). Ngoài ra, quá trình chuyển đổi này đã dẫn đến việc mở rộng dự án đập nước thác Yali – từ 48 triệu watt (W) hoặc 480 megawatt (MW) vào giữa những năm 1980 lên 700 MW vào cuối những năm 1980, và cuối cùng là 720 MW năm 1993, làm cho nó trở thành nhà máy thủy điện lớn thứ ba tại Việt Nam. Thay đổi dân số nhanh chóng, khủng hoảng kinh tế sau chiến tranh, chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường (đổi mới) và công nghiệp hóa quy mô lớn đã làm tăng nhu cầu điện lực.
Để đánh giá tác động của dự án đập này, TS Thim đã phỏng vấn người dân bản địa tại các cộng đồng bị ảnh hưởng dọc theo sông Se San bên Campuchia, thăm các văn phòng xã, huyện và tỉnh, và tham dự các hội thảo phi chính phủ (NGO) quốc gia và quốc tế có liên quan. Sau khi mô tả địa lý của sông Se San, giải thích về lý thuyết diễn viên, nguyên tắc của nó và vai trò của Ủy Ban sông Mê Kông, TS Thim dành ba chương trong mỗi phần để thảo luận về sự tham gia của các diễn viên chính ở cấp địa phương, quốc gia và quốc tế. Ông ghi lại các khoản tương tác của mình trong đấu trường địa phương và quốc tế với các số liệu thống kê, bản đồ và bảng hỗ trợ.
Tuy nhiên, trong chương của đấu trường quốc gia, TS Thim chỉ thảo luận về cấu trúc chính phủ ở Campuchia (trang 136), không phải ở Việt Nam, mà không đưa ra bất kỳ so sánh quốc tế nào. TS Thim không báo cáo về các cuộc họp của mình với các quan chức ở cấp xã, huyện và tỉnh, nhưng cũng không thấy trong bất kỳ chính quyền trung ương nào. Ông có đề cập đến việc giải phóng Campuchia khỏi Khmer Rouge của Việt Nam năm 1979 và mối quan hệ chặt chẽ của chính phủ Campuchia hiện tại với Việt Nam (tr. 170) đã ảnh hưởng đến việc xây đập và bồi thường cho những người bị ảnh hưởng, nhưng không đi sâu vào các khía cạnh chính trị của việc xây đập.
Nếu TS Thim đã thảo luận với chính quyền trung ương Campuchia, ông có thể đã tìm thấy lời giải thích cho những sự cố sau đây: Việc vận chuyển thường xuyên hàng tấn gạo đến tỉnh Ratanakiri (trang 150); lời xin lỗi về tác động tiêu cực từ hạ nguồn do đập ở Việt Nam gây ra (các trang 150 và 157); xây dựng một ký túc xá, chợ, và ba trường học ở tỉnh (trang 151); hỗ trợ tài chính cho các đại biểu Campuchia gặp gỡ các đối tác Việt Nam (các trang 153, 163, 166 và 169). Nhưng, TS Thim chỉ đơn giản tuyên bố rằng chính phủ Campuchia không yêu cầu Việt Nam bồi thường (tr. 168), mà không có lý luận nào. Một mặt, Việt Nam tiếp tục xây thêm đập trên sông Se San vì nhu cầu trong nước để có thêm điện; từ đó, có khả năng thu được kiến thức về cách điều tiết nước và kiểm soát lũ. Mặt khác, Campuchia hiện đang quan tâm đến việc xây dựng các đập thủy điện trên sông Se San ở bên cạnh họ, vì nhu cầu sử dụng điện ngày càng tăng. Chính phủ Trung Quốc đã đi đầu trong việc phát triển thủy điện ở Campuchia, và Điện lực Việt Nam cũng đã ký hợp đồng phát triển dạng năng lượng này tại các nhánh sông Mê Kông của sông Se San và Sre Pok – một lưu vực được chia sẻ bởi cả Campuchia và Việt Nam. Dường như càng nhiều các nhà máy thủy điện của Việt Nam xây dựng trên cùng một dòng sông, thì họ sẽ càng kiểm soát được lũ lụt, đây là phần chính của việc quản lý tài nguyên nước.
TS Thim đã thành công trong việc giải nén lịch sử quá trình phát triển thủy điện trong lưu vực sông Se San để xác định các tác nhân chính, vai trò, lợi ích, quan hệ quyền lực và chiến lược của họ. Các tác nhân chính thức là Ủy ban sông Mê Kông, các Bộ và ngành của Việt Nam và Campuchia, và các cộng đồng ven sông bị ảnh hưởng. Các tác nhân không chính thức – tổ chức phi chính phủ quốc tế và quốc gia ở Campuchia – đã đạt được mục tiêu của họ trong việc trao quyền cho các cộng đồng bị ảnh hưởng để đưa mối quan tâm của họ đến chính quyền tỉnh và quốc gia cũng như các cơ quan quốc tế.
Tuy nhiên, những nỗ lực để có được sự đền bù cho các cộng đồng ven sông bị ảnh hưởng và ngăn chặn việc xây dựng các đập mới, bao gồm cả đập tại Thác Yali, cho đến nay đã đem đến toàn kết quả thất bại: Càng nhiều cuộc biểu tình, các đập nước càng phát triển (tr. 193). Có thể có ích lợi hơn nếu các tổ chức phi chính phủ quốc tế giúp các cộng đồng địa phương áp dụng chiến lược khác – cụ thể là yêu cầu một loại bồi thường khác, trong đó chi trả cho việc di dời dân làng lên các địa điểm trên sườn đồi, khoan thêm giếng để có nước uống chất lượng, xây dựng nhà mới, và bắt đầu cuộc sống mới. Với hành động chiến lược này, các tổ chức phi chính phủ sẽ áp dụng lời khuyên của Norman Long để giúp đỡ các cộng đồng bị ảnh hưởng điều khiển bản thân vượt qua các tình huống khó khăn và biến các tình huống ’tệ’ thành các tình huống ‘đỡ tồi tệ hơn’ (2002).
Mặc dù thiếu sót là không thể giúp các cộng đồng bị ảnh hưởng có được khoản bồi thường mà họ muốn và việc ngừng xây đập, “Quy hoạch lưu vực hạ lưu sông Mê Kông” cung cấp việc khai mở tốt về sự phát triển của khu vực Đông Nam Á này, những vấn đề vẫn cần được giải quyết và cách giải quyết họ có thể giúp đỡ các cộng đồng bị ảnh hưởng một cách hiệu quả.
Tóm lại ”Quy hoạch lưu vực hạ lưu sông Mê Kông” là một khai mở tốt về nghiên cứu các đập nước bên cạnh những thay đổi hiện đại trong việc thực hành năng lượng toàn cầu. Nó đã thúc đẩy các cộng đồng bị ảnh hưởng tự tổ chức và tiếp cận với các cơ quan có thẩm quyền cao hơn (các trang 128-129). Nó đã đưa các tổ chức phi chính phủ quốc tế đến sự nghiên cứu vụ việc và khiến cộng đồng địa phương nghe thấy tiếng nói xa hơn khu vực lân cận của họ (các trang 132-133). Tác giả cũng muốn cảnh báo các nhà chức trách quốc tế về các tình huống tương tự và hậu quả nghiêm trọng để tránh sai lầm tương tự trong tương lai. Tuy nhiên, theo tôi tốt hơn là tác giả có thể đề xuất các giải pháp nào thiết thực và có lợi ích cho tất cả các cộng đồng bị ảnh hưởng.
[1] Long, Norman, Xã hội học phát triển: Quan điểm của diễn viên (London và New York: Routledge, 2001)