6 Thánh nữ là mẹ đơn thân
Meg Hunter-Kilmer
09 tháng Năm, 2020
Những người mẹ đơn thân thường bị lãng quên trong Ngày của Mẹ, nhưng chắc chắn những người phụ nữ này đang cầu thay nguyện giúp cho họ từ trên thiên đàng.
Ngày của Mẹ năm nay, nhiều người phụ nữ được chồng của họ tôn vinh, những người chồng dành ít thời gian cách ly của mình (hy vọng là vậy) khuyến khích con cái làm thiệp hoặc quà cho mẹ. Ngược lại, những người mẹ đơn thân thường bị lãng quên trong Ngày của Mẹ, đặc biệt nếu con của họ còn nhỏ. Đôi khi ngay trong Giáo hội, những người mẹ đơn thân có thể cảm thấy bị lãng quên, cho dù là không nhìn thấy. Nhưng có nhiều thánh nhân là những người mẹ đơn thân, bất kể là góa phụ, ly dị, hoặc chưa bao giờ kết hôn.
Thánh Margaret Cortona (1247-1297) là tình nhân của một người đàn ông giàu có và là mẹ của đứa con của ông ta. Khi đứa con trai vẫn còn nhỏ, người cha bị sát hại, Thánh Margaret đã muốn ở lại nhà của người tình với hy vọng rằng người thừa kế của nhân tình sẽ chào đón đứa con trai của người quá cố. Thánh nữ có thể giữ lại nhiều món quà đã được tặng và bán chúng để cung cấp cho bản thân và con trai. Nhưng Margaret đã được biến đổi trước hình ảnh quan tài của người đàn ông mà chị yêu thương, một người chị biết là đã chết trong tội. Chị sám hối tội lỗi của mình và đem theo đứa con, bỏ lại sau lưng tất cả của cải mà chị được quyền hưởng. Chị muốn trở về nhà, nhưng bị đuổi bởi người mẹ kế của chị. Sau đó Margaret tìm nơi trú ngụ tại một tu viện Phan sinh, tại đây thánh nhân được cho biết là còn quá trẻ và quá đẹp để sống với các tu sĩ. Thánh nhân tìm một căn nhà trong thành phố với hai người phụ nữ khác, và thánh nhân nuôi nấng đứa con trai ở đó, người sau này trở thành một tu sĩ. Margaret trở thành thành viên của Dòng Ba Phan sinh và là cố vấn tinh thần cho nhiều người, nhưng tiếp tục chịu đựng những kết án vu khống vì quá khứ của thánh nhân.
Chân phước Columba Kang Wan-suk (1761-1801) là một người Triều tiên trở lại Kitô giáo, là người đã đưa đứa con trai riêng của chồng, cha mẹ, và mẹ chồng về với Đức Kitô. Ngược lại, chồng của thánh nữ chế nhạo đức tin của thánh nữ, và cuối cùng đã bỏ thánh nữ để lấy vợ lẽ. Columba sau đó nuôi đứa con trai riêng của chồng (Chân phước Philip Hong Pil-ju) và con gái của thánh nữ, cho các con sống giữa môi trường những người Công giáo đạo đức khi ngôi nhà của chân phước trở thành trung tâm của Giáo hội ở Triều Tiên. Columba dành phần đời còn lại như là một người rao giảng phúc âm và giáo lý viên, là người bảo vệ cho một linh mục của Triều Tiên (bị săn đuổi), và là trung tâm của cộng đoàn, trước khi bị bắt (cùng với con riêng của chồng) và chịu tử đạo ở tuổi 40.
Thánh Cecilia Yu So-sa (1761-1839) mất chồng (Chân phước Augustine Chong) là người chịu tử đạo năm 1801, khi con trai của thánh nữ là Thánh Phaolô Chong Ha-sang lên bảy tuổi và con gái của thánh nữ là Thánh Elizabeth Jeong Jeong-rye lên 5. Thánh nhân tự xoay xở nuôi hai người con, bất chấp sự bắt bớ từ một số thành viên gia đình biết được đức tin của thánh nữ. Cả ba người giữ lòng trung thành trong sự nghèo khó và phấn đấu, và chịu tử đạo trong những cuộc bách hại năm 1839. Thánh Phaolô Chong Ha-sang là một vị thánh tử đạo quan trọng nhất của Triều Tiên; chính nhờ những lời chuyển cầu của ngài mà cuối cùng các nhà thừa sai được phái đến Triều Tiên sau khi Giáo hội ở đó trải qua nhiều thập kỷ không có linh mục.
Chân phước Concepcion Cabrera de Armida (1862-1937) được biết đến với tên là Conchita suốt cuộc đời. Là người mẹ của chín đứa con, Conchita trở thành góa phụ khi mới 39 tuổi và đứa con út mới chỉ 2 tuổi. Không như nhiều vị thánh quả phụ, Conchita sau đó không gia nhập đời sống tu trì nhưng một mình nuôi con, đồng thời cũng thành lập một dòng tu cho nữ và một dòng khác cho các linh mục cùng với một số nhóm khác nhau để động viên giáo dân phát triển trong sự nên thánh. Chân phước cũng là một nhà thần bí viết 60.000 trang về đời sống tâm linh của thánh nữ, tất cả trong giai đoạn ở nhà dạy dỗ các con.
Tôi tớ của Chúa Dorothy Day (1897-1980) là một người Cộng sản và sống theo lối sống đặc trưng của những người đồng niên thời đó, kể cả việc có hàng loạt bạn tình, phá thai, và có ý định quyên sinh. Sau đó chị nhìn thấy tất cả những điều này như là bằng chứng cho thấy tâm hồn vô cùng khao khát Chúa của mình, một sự khát khao không thể câm lặng bởi niềm hạnh phúc mà cuối cùng chị tìm thấy trong một cuộc hôn nhân hợp pháp và sự chào đời của đứa con gái. Chị bắt đầu đi dự Lễ và quyết định cho con được rửa tội, những quyết định mà người bạn đường của chị xỉ vả và cuối cùng dẫn đến việc ly thân. Sau khi trở lại, Dorothy thành lập phong trào Công nhân Công giáo, một phong trào liên đới với người nghèo mà qua đó chị đã nuôi dạy con gái của mình là Tamar. Một nhà hoạt động tích cực đã nhiều lần bị bắt và thậm chí bị bắn vì công cuộc chống lại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, Dorothy tìm thấy sức mạnh của mình trong Thánh Lễ hàng ngày và cam kết cầu nguyện chiêm niệm.
Tôi tớ của Chúa Catherine Doherty (1896-1985) là một nữ quý tộc người Nga kết hôn với người anh họ và phục vụ làm y tá trong Đệ nhất Thế chiến trước khi chạy trốn khỏi nước Nga trong thời Cách mạng Nga. Hai vợ chồng tìm đường sang Canada và Catherine sinh đứa con trai đầu lòng. Chẳng bao lâu sau, Catherine bỏ người chồng vũ phu và ngoại tình, sau đó trở thành một người Công giáo và nhận được phép giải. Chị và con trai chuyển đến New York, và Catherine hoạt động với người nghèo và hoạt động cho sự công bằng giữa các chủng tộc. Chị kết hôn năm 47 tuổi (sau khi con trai trưởng thành), và cùng với chồng thành lập một cộng đoàn với tên gọi Nhà Madonna vẫn còn hoạt động cho đến ngày nay.
[Nguồn: aleteia]
[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 11/5/2020]