Bánh Mì Sáng | 22.01 | Thánh Vinh Sơn, Phó tế, tử đạo
Mùa Thường Niên | Phụng vụ năm C
Thánh Vincent (Saragossa)
Phó tế, tử đạo (qua đời năm 304)
Khi Chúa Giêsu trên hành trình đến cái chết, thánh sử Luca nói rằng Ngài đã hướng về thành thánh Jerusalem. Chính lòng can đảm cứng như đá này là dấu chỉ đặc biệt của các vị tử đạo.
Hầu hết những gì chúng ta biết về vị thánh này là nhờ thi sĩ Prudentius. Vở kịch về ngài được thêu dệt tự do bằng sự tưởng tượng của người sưu tập. Thánh Augustinô, trong một bài giảng về thánh Vincent, đã nói về việc có vở kịch về việc tử đạo. Ít nhất chúng ta cũng biết chắc tên ngài, một phó tế, nơi ngài chết và an táng.
Theo tích truyện chúng ta có (và một số truyện về các vị tử đạo ban đầu, cách sùng đạo khác thường của ngài hẳn phải có nền tảng một cuộc sống rất anh dũng), thánh Vincent được phong chức Phó tế bởi tay người bạn là thánh Valerius Saragossa ở Tây Ban Nha. Các hoàng đế Rôma đã xuất bản các lệnh của ngài phản đối giới tu trì (clergy) năm 303, và năm sau là lệnh phản đối người ngoại giáo. Thánh Vincent và Đức Giám mục Valerius bị tù ở Valencia. Đói khát và bị hành hạ vẫn không làm các ngài nao lòng. Như chàng thanh niên trong lò lửa (sách Daniel, chương 3), họ có vẻ mạnh mẽ trong đau khổ. Valerius bị đi đày, thế là Dacian đổ cơn giận lên Vincent. Những đợt hành hạ dã man như thế chiến II bùng nổ, nhưng nỗ lực của Dacian không ăn thua. Ngài lại tiếp tục bị hành hạ.
Cuối cùng Dacian thỏa hiệp: Vincent phải bỏ Sách Thánh vào lửa theo lệnh của hoàng đế. Ngài một mực từ chối. Ngài bị đưa lên giàn nướng, tử tù Vincent vẫn anh dũng, những người hành hạ cũng “bó tay”. Thánh Vincent bị tống vào ngục dơ bẩn. Và ở đây ngài đã chuyển hóa được tên cai ngục. Dacian nổi giận lôi đình, bắt ngài phải chết. Các bạn đến thăm ngài, nhưng ngài đã yếu sức. Họ đặt ngài lên giường và rồi ngài trút hơi thở cuối cùng.
Thomas Aquinas TRẦM THIÊN THU
(Chuyển ngữ từ BeliefNet.com, Saints.sqpn.com, AmericanCatholic.org, Catholic.org)
Mời nghe các bài đọc trong thánh lễ hôm nay:
(Martha đọc)
Nghe hoặc Download Bài đọc Tại đây
Bài đọc: Dt 7,1-3.15-17
Muôn thuở con là Thượng Tế theo phẩm trật Menkixêđê.
Lời Chúa trong thư gửi tín hữu Do-Thái.
Thưa anh em, ông Men-ki-xê-đê là vua Sa-lem, là tư tế của Thiên Chúa Tối Cao, đã đón gặp và chúc lành cho ông Áp-ra-ham, lúc ông này đang trên đường về sau khi đánh bại các vua. Ông Áp-ra-ham đã chia cho ông Men-ki-xê-đê một phần mười chiến lợi phẩm. Trước hết, ông tên là Men-ki-xê-đê, nghĩa là “vua công chính”; rồi ông lại là vua Sa-lem, nghĩa là “vua bình an.” Ông không có cha, không có mẹ, không có gia phả, cuộc đời không có khởi đầu, cũng không có kết thúc. Như thế là ông giống Con Thiên Chúa: mãi mãi ông vẫn là tư tế. Điều ấy lại còn hiển nhiên hơn nữa, khi một vị tư tế khác tương tự như ông Men-ki-xê-đê xuất hiện; vị này đã trở nên tư tế không phải do Lề Luật quy định việc cha truyền con nối, nhưng do sức mạnh của một đời sống bất diệt. Quả thật, có lời chứng nhận rằng: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê. Đó là lời Chúa.
Nghe hoặc Download Bài Tin Mừng MP3 Tại đây
Tin Mừng: Mc 3, 1-6
Ngày sabát, được cứu mạng người hay giết đi?
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Máccô.
Khi ấy, Đức Giê-su lại vào hội đường. Ở đó có một người bị bại tay. Họ rình xem Đức Giê-su có chữa người ấy trong ngày sa-bát không, để tố cáo Người. Đức Giê-su bảo người bại tay: “Anh đứng dậy, ra giữa đây!” Rồi Người nói với họ: “Ngày sa-bát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết người?” Nhưng họ làm thinh. Đức Giê-su giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn bực vì lòng họ chai đá. Người bảo anh bại tay: “Anh giơ tay ra!” Người ấy giơ ra, và tay liền trở lại bình thường. Ra khỏi đó, nhóm Pha-ri-sêu lập tức bàn tính với phe Hê-rô-đê, để tìm cách giết Đức Giê-su. Ðó là lời Chúa.
Alors, promenant sur eux un regard de colère, navré de l’endurcissement de leurs cœurs, il dit à l’homme: «Étends la main.» Il l’étendit, et sa main redevint normale. Une fois sortis, les pharisiens se réunirent en conseil avec les partisans d’Hérode contre Jésus, pour voir comment le faire périr. (Mc 3, 1-6)