Antôn Nguyễn Văn TiếngSuy niệm

CN. Lễ Lá : Vinh Quang Thiên Chúa | NVT

SUY NIỆM TIN MỪNG
CHÚA NHẬT LỄ LÁ NĂM A 14
(Mt.26,14-27,66)
****

VINH QUANG THIÊN CHÚA

LÀM PHÉP LÁ

Ðức Giêsu vào Giêrusalem với tư cách là Ðấng Mê-si-a (Mt.21,1-11).

(1) Khi Thầy trò đến gần thành Giêrusalem và tới làng Bếtphaghê, phía núi Ôliu, Ðức Giêsu sai hai môn đệ và (2) bảo: “Các anh đi vào làng trước mặt kia, và sẽ thấy ngay một con lừa mẹ đang cột sẵn đó, có lừa con bên cạnh. Các anh tháo dây ra và dắt về cho Thầy. (3) Nếu có ai nói gì với các anh, thì trả lời là Chúa cần đến chúng, Người sẽ gởi lại ngay”. (4) Sự việc đó xảy ra như thế để ứng nghiệm lời ngôn sứ:
(5) Hãy bảo thiếu nữ Xion:
Kìa Ðức Vua của ngươi đang đến với ngươi
hiền hậu ngồi trên lưng lừa,
lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ.
(6) Các môn đệ ra đi và làm theo lời Ðức Giêsu đã truyền. (7) Các ông dắt lừa mẹ và lừa con về, trải áo choàng của mình trên lưng chúng, và Ðức Giêsu cỡi lên. (8) Một đám người rất đông lấy áo mình trải xuống mặt đường, một số khác lại chặt nhành lá mà rải lên lối đi. (9) Ðám đông, người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy:
Hoan hô Con vua Ðavít!
Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Ðức Chúa!
Hoan hô trên các tầng trời.
(10) Khi Ðức Giêsu vào Giêrusalem, cả thành náo động, và thiên hạ hỏi nhau: “Ông này là ai vậy?” (11) Ðám đông trả lời: “Ngôn sứ Giêsu, người Nadarét, xứ Galilê đấy”.

THÁNH LỄ       

Cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu (Mt.26,14 – 27,66).

Giu-đa nộp Ðức Giêsu
(14) Bấy giờ, một người trong Nhóm Mười Hai tên là Giuđa Ítcariốt, đi gặp các thượng tế (15) mà nói: “Quý vị muốn cho tôi bao nhiêu? Tôi đây sẽ nộp ông ấy cho quý vị”. Họ quyết định cho hắn ba mươi đồng bạc. (16) Từ lúc đó, hắn cố tìm dịp thuận tiện để nộp Ðức Giêsu.

Chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua
(17) Ngày thứ nhất trong tuần bánh không men, các môn đệ đến thưa với Ðức Giêsu: “Thầy muốn chúng con dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?” (18) Người bảo: “Các anh đi vào thành, đến nhà một người kia và nói với ông ấy: “Thầy nhắn: thời của Thầy đã gần tới, Thầy sẽ đến nhà ông để ăn mừng lễ Vượt Qua với các môn đệ của Thầy”. (19) Các môn đệ làm y như Ðức Giêsu đã truyền, và dọn lễ Vượt Qua.

Ðức Giêsu tiên báo Giuđa sẽ nộp Thầy
(20) Chiều đến, Ðức Giêsu vào bàn tiệc với mười hai môn đệ. (21) Ðang bữa ăn, Người nói: Thầy bảo thật anh em, một người trong anh em sẽ nộp Thầy”. (22) Các môn đệ buồn rầu quá sức, bắt đầu lần lượt hỏi Người: “thưa Ngài, chẳng lẽ con sao?” (23) Người đáp: “Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy. (24) Ðã hẳn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho người nào nộp Con Người: thà người đó đừng sinh ra thì hơn!” (25) Giuđa, kẻ nộp Người cũng hỏi: “Rápbi, chẳng lẽ con sao?” Người trả lời: “Chính anh nói đó!”.

Ðức Giêsu lập phép Thánh Thể
(26) Cũng đang bữa ăn, Ðức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy”. (27) Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: “Tất cả anh em hãy uống chén này, (28) vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội. (29) Thầy bảo cho anh em biết: từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày ấy, ngày Thầy được cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy”.

Ðức Giêsu tiên báo thánh Phê-rô sẽ chối Thầy
(30) Hát thánh vịnh xong, Ðức Giêsu và các môn đệ ra đi lên núi Ôliu. (31) Bấy giờ Ðức Giêsu nói với các ông: “Ðêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy. Vì có lời đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và đàn chiên sẽ tan tác. (32) Nhưng sau khi chỗi dậy, Thầy sẽ đến Galilê trước anh em”. (33) Ông Phêrô liền thưa: “Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã”. (34) Ðức Giêsu bảo ông: “Thầy bảo thật anh: nội đêm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần”. (35) Ông Phêrô lại nói: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy”. Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy.

Ðức Giêsu cầu nguyện tại vườn Ghết-sê-ma-ni
(36) Bấy giờ Ðức Giêsu đi cùng với các ông đến một thửa đất gọi là Ghếtsêmani. Người nói với các môn đệ: “Anh em ngồi lại đây, trong lúc Thầy đi đến đàng kia cầu nguyện”. (37) Rồi Người đưa ông Phêrô và hai người con ông Dêbêđê đi theo. Người bắt đầu cảm thấy buồn rầu xao xuyến. (38) Bấy giờ Người nói với các ông: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy”. (39) Người đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống, cầu nguyện rằng: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha”. (40) Rồi Người đến chỗ các môn đệ, thấy các ông đang ngủ, liền nói với ông Phêrô: “Thế ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao? (41) Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái,nhưng thể xác lại yếu đuối”. (42) Người lại đi cầu nguyện lần thứ hai và nói: “Lạy Cha, nếu chén này không thể rời khỏi con, nhất định con phải uống, thì xin cho ý Cha được thể hiện”. (43) Rồi Người lại đến, thấy các môn đệ vẫn đang ngủ, vì mắt họ nặng trĩu. (44) Người để mặc các ông mà đi cầu nguyện lần thứ ba, nói lại cũng một lời đó. (45) Bấy giờ Người đến chỗ các môn đệ và nói với các ông: “Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ sao? Này, đến giờ Con Người bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi. (46) Ðứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới!”

Ðức Giêsu bị bắt
(47) Người còn đang nói, thì Giuđa, một trong Nhóm Mười Hai, đã đến. Cùng đi với hắn, có cả một đám người đông đảo mang gươm giáo gậy gộc. Họ được các thượng tế và kỳ mục trong dân sai đến. (48) kẻ nộp Người đã cho họ một dấu hiệu, hắn dặn rằng: “Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy!” (49) Ngay lúc đó, Giuđa tiến lại gần Ðức Giêsu và nói: “Rápbi, xin chào Thầy!”, rồi hôn Người. (50) Ðức Giêsu bảo hắn: “Này bạn, bạn đến đây làm gì thì cứ làm đi!” Bấy giờ họ tiến đến, tra tay bắt Ðức Giêsu. (51) Và kìa, một trong những kẻ theo Ðức Giêsu liền vung tay tuốt gươm của mình ra, chém phải tên đầy tớ của thượng tế, làm nó đứt tai. (52) Ðức Giêsu bảo người ấy: “Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm. (53) hay anh tưởng là Thầy không thể kêu cứu với Cha Thầy sao? Người sẽ cấp ngay cho Thầy hơn mười hai đạo binh thiên thần! (54) Nhưng như thế, thì lời Kinh Thánh ứng nghiệm sao được? Vì theo đó, mọi sự phải xảy ra như vậy”. (55) Vào giờ ấy Ðức Giêsu nói với đám đông: “Các ông đem gươm giáo gậy gộc đến như để bắt tôi một tên cướp sao? Ngày ngày tôi vẫn ngồi giảng dạy ở Ðền Thờ thì các ông không bắt. (56) Nhưng toàn bộ việc này xảy ra là để ứng nghiệm những lời chép trong Sách Các Ngôn Sứ”. Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết.

Ðức Giêsu ra trước Thượng Hội Ðồng
(57) Họ bắt Ðức Giêsu, rồi điệu đến thượng tế Caipha. Các kinh sư và kỳ mục đã tề tựu sẵn đó. (58) Ông Phêrô theo Người xa xa, đến tận dinh thượng tế. Ông vào bên trong ngồi với bọn nha dịch, xem kết cuộc ra sao.
(59) Còn các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Ðồng thì tìm chứng gian buộc tội Ðức Giêsu để lên án tử hình. (60) Nhưng họ tìm không ra, mặc dầu có nhiều kẻ đã đứng ra làm chứng gian. Sau cùng, có hai người bước ra, (61) khai rằng: “Tên này đã nói: tôi có thể phá Ðền Thờ Thiên Chúa, và nội trong ba ngày, sẽ xây cất lại”. (62) Và vị thượng tế đứng lên hỏi Ðức Giêsu: “Ông không nói lại được một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó?” (63) Nhưng Ðức Giêsu vẫn làm thinh. Vị thượng tế nói với Người: “Tôi nại đến Thiên Chúa hằng sống, mà truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa không? (64) Ðức Giêsu trả lời: “Chính ngài nói đó. Hơn nữa, tôi nói cho các ông hay: từ nay, các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Ðấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến”. (65) Bấy giờ vị thượng tế liền xé áo mình ra và nói: “Hắn nói phạm thượng! Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Ðấy, quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa, (66) quý vị nghĩ sao?” Họ liền đáp: “Hắn đáng chết!”
(67) Rồi họ khạc nhổ vào mặt và đấm đánh Người. Có kẻ lại tát Người (68) và nói: “Ông Kitô ơi, hãy nói tiên tri cho chúng tôi nghe đi: ai đánh ông đó?”

Thánh Phê-rô chối Thầy
(69) Còn ông Phêrô đang ngồi ngoài sân, thì có một người tớ gái đến bên ông và nói: “Cả bác nữa, bác cũng đã theo ông Giêsu, người Galilê đó chứ gì?” (70) Ông liền chối trước mặt mọi người mà nói: “Tôi không biết cô nói gì!” (71) Ông đi ra đến cổng, thì một người tớ gái khác thấy ông, liền nói với những người ở đó: “Bác này cũng theo ông Giêsu người Nadarét đấy”. (72) Nhưng ông Phêrô lại thề mà chối: “Tôi không biết người ấy”. (73) Một lát sau, những người đứng đó xích lại gần ông Phêrô mà nói: “Ðúng là bác cũng thuộc bọn họ. Cứ nghe giọng nói của bác là biết ngay”. (74) Bấy giờ ông Phêrô liền thốt lên những lời độc địa và thề rằng: “Tôi không biết người ấy”. Ngay lúc đó, có tiếng gà gáy. (75) Ông Phêrô sực nhớ lời Ðức Giêsu đã nói: Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần”. Ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết.

Ðức Giêsu bị giải đến tổng trấn Phi-la-tô
(1) Trời vừa sáng, tất cả các thượng tế và kỳ mục trong dân cùng nhau bàn kế hại Ðức Giêsu, để xử tử Người. (2) Sau đó, họ trói Người lại và giải đi nộp cho tổng trấn Philatô.

Giuđa thắt cổ
(3) Bấy giờ, Giuđa, kẻ nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận. Hắn đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ mục (4) mà nói: “Tôi đã phạm tội nộp người vô tội, khiến Người phải chết oan”. Nhưng họ đáp: “Can gì đến chúng tôi. Mặc kệ anh!” (5) Giuđa ném số bạc vào Ðền Thờ rồi lui ra và đi thắt cổ. (6) Các thượng tế lượm lấy số bạc ấy mà nói: “Không được phép bỏ vào quỷ Ðền Thờ, vì đây là giá máu”. (7) Sau khi bàn định với nhau, họ dùng tiền đó tậu “Thửa Ruộng Ông Thợ Gốm” để làm nơi chôn cất khách ngoại kiều. (8) Vì vậy mà thửa ruộng ấy gọi là “Ruộng Máu” cho đến ngày nay. (9) Thế là ứng nghiệm lời ngôn sứ Giêrêmia: “Họ đã lượm lấy ba mươi đồng bạc, tức là cái giá mà một số con cái Ítraen đã đặt khi đánh giá Người. (10) Và họ lấy số bạc đó mà mua “Thửa Ruộng Ông Thợ Gốm”, theo những điều Ðức Chúa đã truyền cho tôi”.

Ðức Giêsu ra trước tòa tổng trấn Phi-la-tô
(11) Ðức Giêsu bị điệu ra trước mặt tổng trấn; tổng trấn hỏi Người: “Ông là vua dân Dothái sao?” Ðức Giêsu trả lời: “Chính ngài nói đó”. (12) Nhưng khi các thượng tế và kỳ mục tố Người, thì Người không trả lời một tiếng. (13) Bấy giờ ông Philatô hỏi Người: “Ông không nghe bao nhiêu điều họ làm chứng chống lại ông đó sao?” (14) Nhưng Ðức Giêsu không trả lời ông về một điều nào, khiến tổng trấn rất đỗi ngạc nhiên.
(15) Vào mỗi dịp lễ lớn, tổng trấn có lệ phóng thích cho đám đông một người tù, tùy ý họ muốn. (16) Mà khi ấy có một người tù khét tiếng, tên là Baraba. (17) Vậy khi đám đông đã tụ họp lại, thì tổng trấn Philatô nói với họ: “Các ngươi muốn ta phóng thích ai cho các người đây? Baraba hay Giêsu, cũng gọi là Kitô?” (18) Bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tị mà họ nộp Người.
(19) Lúc tổng trấn đang ngồi xử án, thì bà vợ sai người đến nói với ông: Ông đừng nhúng tay vào vụ xử người công chính này, vì hôm nay, trong chiêm bao, tôi đã khổ nhiều vì ông ấy”.
(20) Nhưng các thượng tế và kỳ mục lại xúi đám đông đòi tha tên Baraba mà giết Ðức Giêsu. (21) Tổng trấn hỏi họ: “Trong hai tên này, các ngươi muốn ta tha ai cho các ngươi?” Họ thưa: “Baraba!” (22) Tổng trấn Philatô nói tiếp: “Thế còn ông Giêsu, cũng gọi là Kitô, ta sẽ làm gì đây?” Mọi người đồng thanh: “Ðóng đinh nó vào thập giá!” (23) Tổng trấn lại nói: “Thế ông ấy đã làm điều gì gian ác?” Họ càng la to: “Ðóng đinh nó vào thập giá!” (24) Tổng trấn Philatô thấy đã chẳng được ích gì mà còn thêm náo động, nên lấy nước rửa tay trước mặt đám đông mà nói: “Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các ngươi liệu lấy!” (25) Toàn dân đáp lại: “Máu hắn đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi!” (26) Bấy giờ, tổng trấn phóng thích tên Baraba cho họ, còn Ðức Giêsu, thì sau khi truyền đánh đòn, ông trao cho họ đóng đinh vào thập giá.

Ðức Giêsu phải đội vòng gai
(27) Bấy giờ lính của tổng trấn đem Ðức Giêsu vào trong dinh, và tập trung cả cơ đội quanh Người. (28) Chúng lột áo Người ra, khoác cho Người một tấm áo choàng đỏ. (29) Rồi kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người, và trao vào tay mặt Người một cây sậy. Chúng quỳ gối trước mặt Người mà nhạo rằng: “Vạn tuế Ðức Vua dân Dothái!” (30) Rồi chúng khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy mà đập vào đầu Người. (31) Chế giễu chán, chúng lột áo choàng ra và cho Người mặc lại áo của mình, rồi điệu Người đi đóng đinh vào thập giá.

Ðức Giêsu chịu đóng đinh vào thập giá
(32) Ðang đi ra, thì chúng gặp một người Kyrênê, tên là Simon; chúng bắt ông vác thập giá của Người. (33) Khi đến nơi gọi là Gôngôtha, nghĩa là Ðồi Sọ, (34) chúng cho người uống rượu pha mật đắng, nhưng Người chỉ nếm một chút mà không chịu uống. (35) Ðóng đinh Người vào thập giá xong, chúng đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau. (36) Rồi chúng ngồi đó mà canh giữ Người.
(37) Phía trên đầu Người, chúng đặt bản án xử tội Người viết rằng: “Người này là Giêsu, vua người Dothái”. (38) Bấy giờ, có hai tên cướp cùng bị đóng đinh với Người, một tên bên phải, một tên bên trái.

Ðức Giêsu bị nhục mạ
(39) Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu (40) vừa nói: “Mi là kẻ phá được Ðền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi! Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào!” (41) Các thượng tế, kinh sư và kỳ mục cũng chế giễu Người mà nói: (42) “Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là vua Ítraen! bây giờ hắn cứ xuống khỏi thập giá đi, thì chúng ta tin hắn liền! (43) Hắn cậy vào Thiên Chúa, thì bây giờ Người cứu hắn đi, nếu quả thật Người thương hắn! Vì hắn đã nói: “Ta là Con Thiên Chúa!” (44) Cả những tên cướp cùng bị đóng đinh với Người cũng sỉ vả Người như thế.

Ðức Giêsu trút linh hồn
(45) Từ giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ cả mặt đất, mãi đến giờ thứ chín. (46) Vào giờ thứ chín, Ðức Giêsu kêu lớn tiếng: “Êli, Êli, lêmasabácthani”, nghĩa là “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (47) Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: “Hắn ta gọi ông Êlia!” (48) Lập tức, một người trong bọn chạy đi lấy miếng bọt biển, thấm đầy giấm, buộc vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. (49) Còn những người khác lại bảo: “Khoan đã, để xem ông Êlia có đến cứu hắn không!” (50) Ðức Giêsu lại kêu một tiếng lớn, rồi trút linh hồn.
(51) Ngay lúc đó, bức màn trướng trong Ðền Thờ bị xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Ðất rung đá vỡ. (52) Mồ mả bật tung, và xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được chỗi dậy. (53) Sau khi Chúa chỗi dậy, các ngài ra khỏi mồ, vào thành thánh, và hiện ra với nhiều người. (54) Thấy động đất và các sự việc xảy ra, viên đại đội trưởng và những người cùng ông canh giữ Ðức Giêsu đều rất đỗi sợ hãi và nói: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa”.
(55) Ở đó, cũng có nhiều người phụ nữ nhìn xem từ đàng xa. Các bà này đã theo Ðức Giêsu từ Galilê để giúp đỡ Người. (56) trong số đó, có bà Maria Mácđala, bà Maria mẹ các ông Giacôbê và Giôxép, và bà mẹ các con ông Dêbêđê.

Mai táng Ðức Giêsu
(57) Chiều đến, có một người giàu sang tới. Ông này là người thành Arimathê, tên là Giôxép, và cũng là môn đệ Ðức Giêsu. (58) Ông đến gặp ông Philatô để xin thi hài Ðức Giêsu. Bấy giờ tổng trấn Philatô ra lệnh trao trả thi hài cho ông. (59) Khi đã nhận thi hài, ông Giôxép lấy tấm vải gai sạch mà liệm, (60) và đặt vào ngôi mộ mới, đã đục sẵn trong núi đá, dành cho ông. Ông lăn tảng đá to lấp cửa mồ, rồi ra về. (61) Còn bà Maria Mácđala và một bà Maria khác ở lại đó, ngồi đối diện vào mồ.

Lính căn mồ
(62) Hôm sau, tức là khi ngày áp lễ đã qua, các thượng tế và những người Pharisêu kéo nhau đến ông Philatô, (63) và nói: “Thưa ngài, chúng tôi nhớ tên bịp bợm ấy khi còn sống có nói: “Sau ba ngày, Ta sẽ chỗi dậy”. (64) Vậy xin quan lớn truyền canh mộ kỹ càng cho đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ hắm đến lấy trộm hắn đi, rồi phao với dân là hắn đã từ cõi chết chỗi dậy. Và như thế, chuyện bịp bợm cuối cùng này sẽ còn tệ hại hơn chuyện trước”. (65) Ông Philatô bảo họ: “Thì có sẵn lính đó, các người hãy đi mà canh giữ theo cách các ngươi biết!” (66) Thế là họ ra đi canh giữ mồ, niêm phong tảng đá và cắt lính canh mồ.
_____________

SUY NIỆM

VINH QUANG THIÊN CHÚA

1. Vinh quang thế gian   
                                                            

Có câu chuyện mang tên “Ý nguyện cuối cùng của Alexander Đại Đế”, nội dung như sau:

Alexander là một vị vua vĩ đại. Trên đường khải hoàn sau khi chinh phạt nhiều nước, ông ngã bệnh. Vào thời khắc ấy, những vùng đất ông chiếm được, quân đội hùng mạnh, những thanh gươm bén, và sự giàu có không còn nghĩa lý gì với ông. Ông nhận ra rằng cái chết sắp sửa đến và ông sẽ không về kịp mảnh đất quê hương. Ông bảo các sỹ quan của mình: “Ta sắp sửa rời bỏ thế gian này. Ta có ba điều nguyện ước. Các ngươi cần phải thực hiện những gì ta bảo”.

Các vị tướng tuân lệnh trong dòng nước mắt. “Điều ước đầu tiên của ta là hãy bảo thầy thuốc của ta mang cái hòm rỗng của ta về một mình”. Sau khi cố hít thở một hơi, Alexander nói tiếp: “Ước nguyện thứ hai của ta là hãy rải vàng, bạc và châu báu trong kho tàng của ta trên suốt dọc đường đến nấm mồ khi các ngươi mang quan tài của ta ra nghĩa địa”.

Sau khi quấn mình trong chiếc áo khoác và nghỉ một lúc, ông nói tiếp: “Ước muốn cuối cùng của ta là hãy đặt hai bàn tay ta ra bên ngoài cỗ quan tài”.

Mọi người xung quanh ông tất cả đều rất tò mò, nhưng không ai dám hỏi nguyên nhân. Vị sủng tướng của Alexander hôn bàn tay ông và hỏi: “Thưa đức vua, chúng thần sẽ làm theo mệnh lệnh của Ngài. Nhưng Ngài có thể cho chúng thần biết tại sao Ngài lại muốn chúng thần làm như vậy hay không?“.

Sau khi gắng thở một hơi dài, Alexander trả lời:

“Ta muốn mọi người hiểu được ba bài học mà ta đã học được.

Mong ước thứ nhất của ta: Ta để cho người thầy thuốc đưa cỗ quan tài về một mình là để người ta nhận ra rằng một vị thầy thuốc không thể nào thực sự chữa bệnh cho người ta. Nhất là khi đối diện với cái chết, thầy thuốc hoàn toàn bất lực. Nên, ta hy vọng mọi người sẽ học được rằng phải trân trọng quý yêu cuộc sống của họ.

Mong ước thứ hai của ta là để nhắn nhủ mọi người rằng không nên giống như ta theo đuổi mộng giàu sang. Ta tiêu tốn cả đời chạy theo sự giàu có, nhưng ta sẽ lãng phí hầu hết thời gian của đời người.

Mong ước thứ ba của ta là để người đời hiểu rằng ta đến thế gian này với hai bàn tay trắng và ta sẽ rời bỏ thế gian này cũng với hai bàn tay trắng”.

Nói xong ông nhắm mắt lại và trút hơi thở cuối cùng.

(INTERNET).

Vinh quang thế gian chóng qua, mọi thứ là ảo ảnh, nhưng thật khó chối từ, bởi nó rất thực tế, giải quyết nhiều ước mơ tức thời, và đem lại hạnh phúc trước mắt.

Thế nên, vinh quang thế gian vẫn là “điểm nhắm” đối với nhiều người, nó xen vào mọi lãnh vực cuộc sống, nhiều khi cả những lý tưởng cao quý.

Khi người ta hy sinh, từ bỏ những gì đang có, để theo tiếng gọi thiêng liêng của lý tưởng cao đẹp, người ta muốn đạt được thứ hạnh phúc lớn lao hơn, ý nghĩa hơn, trọng đại hơn. Người ta không thể không tự hỏi: “Tôi bỏ mọi sự để làm gì, vì ai, để được gì?”. Không ai hy sinh mọi thứ mình đang có mà không có mục đích. Nếu ta hy sinh những gì mình đang có để đổi lấy những thứ tương tự, thậm chí còn tồi tệ hơn, thì ta hy sinh làm gì ?
Các môn đệ Chúa Giê-su thuở ban đầu cũng đã trải qua giai đoạn diễn biến tâm hồn như thế.

Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu: Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sựtheo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì ? (Mt 19,27-29).

Rõ ràng, các môn đệ Chúa Giê-su muốn có một lời hứa hẹn chính thức.

Lời hứa hẹn mà trong thâm tâm các môn đệ trông chờ, vẫn chưa thể  thoát được mộng vinh quang thế gian mà con người ai cũng vương mang nếu chưa được Lời Chúa soi sáng.

Khi về tới nhà, Ðức Giêsu hỏi các ông: “Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?” Các ông làm thinh, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả.” (Mc 9, 30-37).

Nên, dù Chúa Giê-su đã “hứa hẹn” cho các ông thứ “vinh quang trường cửu” – vinh quang từ Thiên Chúa -nhưng trong tâm tưởng còn nặng nề cao vọng vinh quang thế gian, các ông dường như chưa thể hiểu được những gì Chúa Giê-su nói với các ông.

Thầy bảo thật anh em: anh em là những người đã theo Thầy, thì đến thời tái sinh, khi Con Nguời ngự Tòa Vinh Hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên 12 tòa mà xét xử mười hai chi tộc Israel. Và phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì Danh Thầy, thì sẽ được gấp bội, và còn được sự sống đời đời làm gia nghiệp (Mt 19,27-29).

Có thể thấy rõ vấn để này, trong cuộc đối thoại giữa hai môn đệ đi về làng Ê-mau với Chúa Giê-su Phục Sinh.

Chúa Giê-su hỏi: “Các ông có chuyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?”. Một người tên là Clêôpha trả lời: “Có lẽ ông là khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem mà lại không hay biết những sự việc vừa mới xẩy ra trong thành mấy ngày nay”. Chúa hỏi: “Việc gì thế?”. Các ông thưa: “Sự việc liên quan đến ông Giêsu quê thành Nazareth. Người là một vị Ngôn Sứ có quyền lực trong ngôn ngữ và hành động trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng-tế và thủ-lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào Thập Giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel.(Lc.24,13-35).

– “Sao buồn bã vậy ?” Không buồn sao được. Mộng vàng “vinh quang thế gian” đã tan tành theo mây khói !

Những tìm hiểu trên, cho chúng ta thấy vào ngày Lễ Lá – ngày Chúa Giê-su tiến vào thành Giê-ru-sa-lem trong tiếng hoan hô vạn tuế của mọi người – đã làm cho các môn đệ vui đến thế nào ! Vì đó là tất cả những gì các ông chờ đợi.

Tranh “Ba Thập Giá” của Rembrandt

2. Vinh quang Thiên Chúa.

Chúng ta vẫn thường nghe một bài nhạc quen thuộc vào Mùa Chay,  đặc biệt là Tuần Thánh. “Vinh quang của ta là Thánh Giá Đức Ki-tô, nơi Người ơn cứu độ của ta, sức sống của ta, phục sinh của ta. Nhờ Chúa ta được cứu độ. Nhờ Chúa ta được giải thoát…” (Vinh quang của ta – Hoàng Kim).   
    

Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian.(Gl.6,14).

Ở trên, ta vừa đọc câu chuyện “Ý nguyện cuối cùng của Alexander Đại Đế”. Đó là ý nguyện nói lên sự bế tắt của kiếp người mà không có hướng giải quyết.

Không như thế, người Ki-tô hữu luôn mang một ý nguyện – không phải đợi đến lúc cuối cùng – mà trong suốt cuộc đời lòng tin vào Đức Giê-su Ki-tô. Vì những gì do tội lỗi đã bị tước mất tất cả, đều được khôi phục tất cả. Con người được nhận lại những gì đã bị tước mất.   

“Người ta được Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ lòng tin vào Đức Giêsu Kitô. Tất cả những ai tin đều được như thế, bất luận là ai. Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa” (Rm 3:22-23).

Vì, không ai có thể cho con người cuộc sống vĩnh hằng và vinh quang trường cửu nếu người ấy không phải là  Đấng Hằng Sống.

Thập Giá là chứng tích của Đấng Hằng HữuVinh Quang Thiên Chúa.    
 
“Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu.” (Ga 8,28).

LỜI NGUYỆN

Chiều tím đồi Can – vê
Ngài chết treo ô nhục
Ánh mắt người trần tục
Sao hiểu được Tình Ngài

Tiệc vui đời vẫn say
Thánh Giá buồn lặng lẽ
Lời kinh nào khe khẽ
Pha dòng lệ ăn năn…

Trang sách nguyện bao lần
Câu kinh còn dang dở
Khép lại… rồi lại mở
Cho xong phút hững hờ

Đêm lặng lẽ như tờ
Giáo đường buồn lạnh ngắt
Đây nỗi lòng chân thật…
“Con rất đỗi bơ vơ…”

Đời tan theo ảo tưởng
Nhìn Thập Giá trên cao
Giọt máu nào rơi xuống
Cho dòng lệ ngọt ngào…

Lm. Antôn NGUYỄN VĂN TIẾNG

Bài liên quan

Check Also
Close
Back to top button