“Gió nhớ gì ngẩn ngơ ngoài hiên” | Chuyện phiếm Đạo/Đời
Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 4 mùa Vọng năm B 24/12/2017
“Gió nhớ gì ngẩn ngơ ngoài hiên”
Mưa nhớ gì thì thầm ngoài hiên
Bao đêm tôi đã một mình nhớ em
Ðêm nay tôi lại một mình.”
(Thanh Tùng – Một Mình)
(Mt 14: 26)
Có lẽ, chính vì bạn cứ hát những câu như: “Bao đêm tôi đã một mình”, rồi còn thêm: “Đêm nay tôi lại một mình”, thế nên mới xảy ra những cảnh tượng một mình ngồi thấy ghê ghê, đến rợn người.
Thế đó, là tâm-trạng của rất nhiều người từng thắc mắc và hỏi han đấng bậc nhà Đạo những chuyện tréo cẳng ngỗng như sau, thì làm sao cố Đạo biết đâu mà trả lời/trả vốn cho ra nhẽ. Quả là, cố Đạo người Tây ở Sydney cũng từng nghe hỏi rất nhiều những câu hỏi khá là vẩn vơ, khiến đức ngài ơ thờ bèn trả lời/trả vốn rất huề vốn như câu chuyện hỏi đáp. Thế nhưng, trước khi nghe kể, tưởng cũng nên nghe người nghệ-sĩ hát thêm đôi ca-từ thấm-thía, như sau:
“Nhớ em vội vàng trong nắng trưa.
Áo phơi trời đổ cơn mưa.
Bâng khuâng khi con đang còn nhỏ.
Tan ca bố có đón đưa.
Nhớ em giọt mồ hôi tóc mai.
Gió sương mòn cả hai vai.
Ðôi chân chênh vênh con đường nhỏ.
Nghiêng nghiêng bóng em gầy.
Vắng em còn lại tôi với tôi.
Lá khô mùa này lại rơi.
Thương em mênh mông chân trời lạ.
Bơ vơ chốn xa xôi.
Vắng em đời còn ai với ai.
Ngất ngây men rượu say.
Ðêm đêm liêu xiêu con đường nhỏ.
Cô đơn, cùng với tôi về…..”
(Thanh Tùng – bđd)
“Cô đơn”, nhung nhớ và gì gì nữa, vẫn là và sẽ là những tình-tự ở đời, còn nhớ mãi khôn nguôi. Nói về chuyện “nhớ”, thì bần đạo bầy tôi đây là cũng nhớ đôi giòng hỏi đáp giữa thày/trò, cha/con trong Đạo có nhiều nỗi nhớ, rất như sau:
“Thưa Cha,
Nhiều năm qua, con đây vẫn thường nghe nhiều truyện kể về những người từng thấy “ma”, và có cả những vị bảo rằng mình từng nghe nhiều âm-thanh “lạ tai” thậm chí còn nói: họ thấy cả đồ vật di-chuyển tuỳ hứng mà chẳng có duyên-do, cớ sự gì hết. Vậy, người Công giáo nhìn sự việc này như thế nào? (câu hỏi nghe quen quen từ một giáo-dân ở huyện nhà, là giáo-xứ).
Và đây, lại một trả lời cũng rất quen từ một đấng bậc cũng quen thuộc ở Sydney, như sau:
“Cả tôi nữa, cũng nghe nhiều truyện từ những người tôi quen biết lại là những người từng nhất quyết bảo rằng họ đã thấy “ma” ở đây đó; hoặc từng nghe nhiều âm thanh lạ, kể cả giọng nói của những người không xuất hiện vào lúc ấy. Hiện tượng về những “căn nhà ma” vì thế có lẽ cũng có một vài nền-tảng, trên thực-tế. Đây thực sự là vụ/việc khi hơn một người đều thấy hoặc nghe/biết cùng một chuyện.
Hỏi rằng: từ câu chuyện ấy ta làm được điều gì? Thì, theo thiển ý, Giáo-hội ta cũng từng có những tuyên-bố chính-thức về vấn-đề này, nên tôi cũng chẳng thấy cần để đưa ra câu trả lời dứt khoát cho vấn đề này. Ta cũng từ đó nên rút ra điều mà mọi người biết được do kinh-nghiệm và do từ niềm tin của người Công-giáo.
Tác giả Peter Kreedt có viết trong cuốn sách có nhan-đề là “Tất cả những gì mọi người cần biết về thiên-dàng, lại đã đề-cập đến chuyện “ma quái” rất kinh-hoàng. Ông công-nhận rằng có ba chứng cứ đáng kể về ma quái gặp thấy trong hầu hết mọi nền văn-hoá. Ông phân-biệt ba loại ma từng xứng-hợp với kinh-nghiệm chung của nhiều người mà tôi từng nói đến.
Thứ nhất, có loại ma được qui về câu hỏi mà anh/chị đưa ra, đó là: các hồn ma thấy được nhưng khá mờ mịt lại không có thân-xác thể-chất đột nhiên xuất-hiện hoặc biến mất. Có lúc, hồn ma ấy được bảo là có dáng dấp đàn ông hoặc phụ nữ, và có độ tuổi nào đó khá đặc biệt, kể cả con nít.
Tác giả Kreeft nghĩ rằng: có thể là, thần-hồn của người phàm xác thịt vẫn còn tồn tại nơi luyện ngục và vẫn còn một số công việc chưa hoàn tất trên trái đất. Có thể là, những thần hồn ấy đã sống hoặc chết ngay tại địa-điểm chúng xuất-hiện. Chẳng có gì gọi được là ác-thần/sự dữ khi ta nói về các “thần hồn” ấy, dù có làm cho người chứng kiến cảnh-tượng này, thấy hãi sợ.
Thật ta không thể cắt-nghĩa được tại sao các “hồn” ấy lại được phép xuất-hiện trên cõi trần này, nhưng có quá nhiều truyện kể để xua đuổi chúng để đầu óc con người khỏi bận tâm. Cũng có thể, Thiên-Chúa có lý do nào đó cho phép các “thần hồn” này được xuất-hiện. Một trong các lý-do có thể hiểu được, đó là: việc cho phép như thế cố để làm người bắt gặp thấy mủi lòng rồi còn biết đường mà cầu-nguyện cho họ, hoặc dạy cho họ một vài bài học.
Thứ hai nữa, là: các hồn ma mang dáng dữ-tợn có thể xuất tự hoả-ngục, cũng không chừng. Tôi có nghe một số người bảo rằng họ từng thấy đám quỉ dữ mang hình-hài rất khác biệt và tôi không có lý-do gì để nghi ngờ sự thật mà nói ra.
Cùng một loại như thế, có thể gộp chung vào đó các thần hồn được hiện lên trong các buổi lễ hoặc nghi-thức nào khác rất ngoại thường. Bởi, Satan có thể dính-dự vào các buổi ấy, nên Giáo-hội từng dựa vào Kinh thánh (như ở sách Đệ Nhị Luật đoạn 18 câu 9-13) từng cảnh giác các tín-hữu mình đừng nên dính-dấp vào buổi ấy.
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo có dạy rằng: “Mọi hình-thức bói toán nói tiên-tri đều phải được loại bỏ: chạy đến với Satan hoặc ma quái, quỉ thần để nhờ cậy, hoặc gọi hồn người chết hoặc “cầu cơ” này khác để bảo rằng “sức mạnh thần-kỳ ấy có phép thần thông đoán được tương lai con người” luôn là chuyện sai trái, đầy dối trá.
Lại nữa, tra-cứu, đoán ý tử vi đẩu số, chiêm-tinh, coi chỉ tay, giải-đoán điềm thiêng dấu lạ, cùng các hiện-tượng giải-đoán tương lai mai ngày, rồi chạy đến với môi-giới tất cả đều che đậy một khát-vọng có quyền-phép trên cả thời-gian, lịch-sử để phân tách kết cuộc những người khác, cùng thu-phục các quyền-uy thế-lực tiềm ẩm ở bên dưới. Tất cả những thứ như thế đều trái với niềm vinh-dự, sự tôn-trọng và kính sợ những gì ta mắc nợ chỉ mình Thiên-Chúa, thôi.” (X. GLHTCG đoạn 2116)
Trường hợp có sự việc các đồ vật di chuyển gây tiếng động hoặc tiếng ồn lạ lùng mà không có nguyên nhân rõ ràng dứt khoát do hồn ma phối hợp với Satan tạo ra. Thánh Gioan Vianney, Cha xứ họ Ars, thường nghe thấy tiếng động của tủ giường/bàn ghế và tiếng động lạ kỳ trong nhà về đêm, và thánh-nhân biết chắc chắn rằng quỉ dữ đang làm việc để ngài lo ra chia trí trong công-cuộc thừa-tác đầy kết quả ở toà giải tội.
Nếu ai trải-nghiệm cũng một hiện-tượng như thế trong nhà mình, thì tốt nhất nên tìm một linh-mục hoặc ngay đến đấng trừ tà ở giáo-phận mình mà xin chúc lành hoặc làm phép trừ tà cho căn nhà của mình.
Thứ ba là, có những truyện kể về sự xuất-hiện của các bậc hiển-thánh hoặc người thân đã chết, thông thường là các thành-viên trong gia-đình mình từng được công-nhận là các vị này có biệt-tài như thế. Nhưng, các ngài không làm ai hãi sợ, đúng ra là tạo sự ủi-an và hy-vọng cho người thân của mình, thôi. Đôi lúc, thành-viên gia-đình đã quá cố, các thiên thần hoặc các bậc hiển-thánh có thể cũng xuất-hiện khi có người thân yêu khác trong gia đình đang đi dần vào chỗ chết, có lẽ để an ủi người sắp chết hoặc tháp-tùng họ đi vào cuộc sống đời sau. Đây, lại là vấn-đề của linh-hồn hoặc những vị đang ở chốn thiên cung.
Nói chung thì, khi các trải-nghiệm của con người đưa ra quá nhiều truyện kể về bóng mờ của các bản-thể linh-thiêng xuất-hiện, một số trong đó được gọi là “hồn ma”, thì cũng không có lý-do gì để ngờ-vực tính chân-thực của các vị này.
Do bởi các sự việc như thế thỉnh thoảng mới xảy ra, thì cũng không nên sợ họ. Giả như có ai trong chúng ta lần đầu thấy loại “hồn ma” nói trên xuất-hiện, thì cũng nên cầu-nguyện cho linh-hồn của người vừa hiện hình và cũng lẽ cũng nên lấy nước thánh rảy lên nơi chỗ vị ấy xuất hiện, thật mới đúng.” (X. Lm John Flader, Church and ghosts, The Catholic Weekly 18/01/2009, Question Time, tr.10)
“Thần hồn” hiện ra, lại cũng giông giống lời ca hôm nào, những hát rằng: “Cô đơn, cùng với tôi về”, và cũng có thể là lời đề-nghị tôi và bạn, ta quay về với vùng trời câu truyện kể khá đáng kể về tâm-trạng cô đơn nhưng không diệu vợi của cuộc đời, cũng rất người.
“Cô đơn, cùng với tôi về” còn gợi nhớ câu truyện kể về “Ông Lão Kỳ Lạ” đọc được ở trên mạng thấy có nghĩa, bèn trích lại đây để bạn và tôi cùng thưởng-thức rồi sẽ tính. Câu truyện được kể như sau:
“Lần đầu tiên tôi nghe về lão là mùa Giáng Sinh 1990. Chiều 24 tháng 12 năm ấy, tôi lên thăm bạn ở thành phố Lausanne. Chúng tôi rủ nhau đi phố sắm sửa vài món quà cho bữa tiệc thân hữu gặp nhau. Phố xá lạnh lẽo và vắng lặng lắm vì đa số mọi người đã đều đi về đoàn tụ với gia đình. Trời lất phất đổ tuyết, gợi cho lữ khách, tùy tâm trạng, mà cảm thấy lãng mạn hay cô đơn kinh khiếp.
Với tôi, năm ấy thật buồn, vì ba mẹ tôi đi Hoa Kỳ thăm bạn, còn tôi vì phải lo học thi cho học kỳ mùa Đông, nên không đi theo được. Ở lại xứ cao nguyên sương mù, gió lạnh trong mùa Giáng Sinh lê thê quả là một chuyện cô đơn khó chịu. May mà còn có bạn bè dễ thương. Họ làm tiệc mời tôi và qua đó cũng ấm lòng người viễn xứ!
Khi ở phố về, chúng tôi chọn đường tắt nên đi ngang qua một chiếc cầu rất dài, bắc lắt lẻo trên ghềnh đá, đứng trên thành cầu nhìn xuống dưới người yếu bóng vía dễ bị xây xẩm vì chiều sâu hun hút hiểm trở. Người bạn đi chung chợt giật tay tôi chỉ một túp lều vải được dựng ngay bên cạnh đầu cầu. Tôi hơi ngạc nhiên, vì mùa này không phải là mùa để người ta cắm trại nơi đây! Bạn tôi kể rằng từ 20 năm nay, mỗi năm cứ đến mùa Giáng Sinh lại có ông già đến đây cắm trại.
Tôi ngạc nhiên hỏi lý do. Bạn tôi cho biết chiếc cầu này là nơi quyến rũ nhiều người cứ đến mùa Giáng Sinh ra nhảy cầu tự tử. Vì mùa Giáng Sinh ở Thụy Sĩ buồn quá, những người sống cô đơn thường bị cơn trầm cảm (Depression) hành hạ nên dễ tìm cái chết. 20 năm qua, người đàn ông đã cắm trại ở đầu cầu, nếu thấy ai một mình đứng trên cầu, lập tức ông bước tới nói chuyện khuyên nhủ. Trong lều của ông thường có rượu chát, chocolade và vài món quà nho nhỏ. Người có ý định tự tử thường được ông mời vào lều cho uống rượu tâm tình, cho đến khi người đó bỏ ý định quyên sinh.
Trước khi rời khỏi lều, thể nào họ cũng được ông cho món quà có ý nghĩa, với số điện thoại để sau đó cần người nói chuyện thì tìm ông. Ông làm việc âm thầm và không nhờ bất cứ hội đoàn nào giúp sức. Nghe lời kể của bạn tôi, tôi xúc động lắm, thật không ngờ giữa cuộc sống có quá nhiều bon chen, tranh giật lại có Tâm Bồ Tát hiện hành. Tôi kéo bạn tôi đi về phía lều của ông lão và tỏ ý muốn nói chuyện. Ông lão mở cửa lều, mời chúng tôi vào. Đó là một người đàn ông có dáng người khắc khổ, tuổi khoảng trên dưới 70 tuổi, gương mặt đầy từ ái. Trong căn lều thiết trí rất đơn giản, có tấm thảm trải cho ấm và một lò than nho nhỏ bên cạnh để sưởi, nấu trà, cafê và thức ăn.
Ông lão hỏi chúng tôi sao lại đứng trên cầu bàn luận lâu vậy, giữa thời tiết giá lạnh trong buổi chiều Noël? Tôi kể ông nghe về cảm nhận của mình khi biết chuyện và vô cùng tán thán hạnh nguyện của ông. Ông lão mỉm cười:
– Thì sống trong đời, ta có thể làm được việc gì tốt cho người khác thì phải cố gắng thôi!“ Ông cũng cho biết thêm: có nhiều người oán trách tôi vì tôi bắt họ tiếp tục sống để chịu khổ!
Chúng tôi nói chuyện với nhau khoảng 1 giờ đồng hồ về nhiều đề tài rất tương đắc, ông lão rất thông thái, rất tế nhị và khi nói chuyện có sức thuyết phục rất cao. Sau đó chúng tôi từ giã ông để trở về lo bữa tiệc buổi tối.
Từ đó, thỉnh thoảng tôi gọi điện thoại nói chuyện với ông. Tình bạn giữa chúng tôi nảy nở và trở nên thân thiết. Ông tên Peter Dupont, tuổi đã 72 và sống một mình cô độc. Tôi cũng ngạc nhiên không hiểu tại sao ông không có gia đình. Ông bảo:
– Khi trước tôi cũng có bà mẹ nữa, vì phụng dưỡng mẹ nên tôi chẳng lập gia đình, ngày tháng qua đi, trở thành người già khi nào không biết.”
Ông làm việc tại ngân hàng X với nhiệm vụ chuyển thư từ tài liệu từ văn phòng này tới văn phòng khác. Ông không bao giờ nghỉ, trong suốt 40 năm làm việc tại đây. Khi mẹ ông qua đời trong đêm, ông đến xin phép ban giám đốc cho ông được nghỉ nửa ngày. Ông giám đốc ngạc nhiên thấy ông xin nghỉ, hỏi lý do mới biết đêm qua mẹ ông qua đời. Ông giám đốc kêu trời và bắt ông nghỉ 1 tuần ở nhà lo mọi chuyện. Sau 3 ngày, ông gọi điện thoại xin cho ông đi làm lại kẻo không ông cũng sẽ „chết“ như bà mẹ của ông mất, nếu người ta còn bắt ông ở nhà!
Quả thật tôi không thể hiểu được tại sao có người ham mê công việc đến thế, ông lão trả lời những thắc mắc của tôi rằng:
– Ta được sống trong xã hội đầy đủ thế này, ta nợ biết bao nhiêu người, nếu không làm việc để trả lại những ân nghĩa ta vay, thời ta nợ đến bao giờ mới trả nổi!?“ Tôi giật mình vì lý luận của ông rất gần với tư tưởng Bồ Tát Đạo của Phật Giáo đại thừa, trong khi ông là KiTô-Hữu.
Với thời gian, chúng tôi khám phá ra ông Dupont cũng chính là khách hàng ở nhà bank nơi bạn tôi làm việc, mặc dù cũng làm việc cho nhà bank, song nhà bank nơi ông làm việc thuộc nhà ngành quản trị gia tài, trong khi ông chưa giàu có để có trương mục tại ngân hàng đó.
Ông biết bạn tôi và rất tin tưởng khi có chuyện gì có liên quan đến ngân hàng tiền bạc.
Thời gian trôi đi, đã 14 năm kể từ ngày tôi quen ông Dupont. Hàng năm ông vẫn đến cắm trại bên cầu, dù rằng tuổi ông đã quá cao và yếu nhiều. Rất nhiều người biết về ông, có những bài phóng sự hay chương trình truyền hình nói về ông, song chưa bao giờ những thứ ấy khiến ông để ý! Ông thường tỏ ra khó chịu khi người ta tới quay phim, phỏng vấn ông.
Hôm qua, tôi nhận được điện thoại của bạn tôi, tôi đã lặng người đi khi nghe tin ông đã vừa giã biệt cõi đời! Cảm động nhất là trước ngày ông mất, ông nhờ người đẩy xe lăn cho ông tới ngân hàng gặp bạn tôi (sau cơn bệnh cách đây 3 tháng, ông không đi lại được nữa, mà phải ngồi xe lăn), ông mang tất cả các hoá đơn thuế nhà, thuế đất, bill điện nước theo và yêu cầu bạn tôi thanh toán giúp ông. Ông bảo:
– Ta biết ta sắp ra đi, nay nhờ anh giúp trang trải hết những nợ nần còn sót lại này, ta không muốn còn phải nợ nần gì khi giã biệt cõi trần.”
Ông không có nhiều tiền trong trương mục, nhưng sau khi thanh toán còn lại một chút, bạn tôi hỏi ông muốn làm gì, ông bảo làm gì cũng được, song ông có người cháu họ xa, hiện cũng đã 70 tuổi, nếu số tiền còn lại đó sau khi ông qua đời, được chuyển cho người cháu với lời nhắn nhủ là: “Giáng Sinh năm nay, ráng thay ông, một năm cũng được ra cầu Lausanne cắm trại cứu người, thì ông sẽ mỉm cười thanh thản ở bên kia thế giới“
Chỉ vậy, hai ngày sau đó ông ra đi thanh thản tại bệnh viện gần nhà.
Một vị Bồ Tát bằng xương bằng thịt đã âm thầm đến và đi, không để lại dấu vết! Tôi không đi dự tang lễ của ông được, nhưng nghe đâu rất đông người tham dự! Có nhiều người được ông cứu từ 30 năm về trước cũng mang gia đình con cháu tới tiễn ông.
Mùa thu … vắng lặng và buồn quá! Chiếc lá vàng rơi để trở về với cát bụi … tăng thêm chất màu mỡ cho đất. Một đóng góp cuối cùng! Ông lão kỳ lạ kia cũng vậy!” (Quảng Diệu Trần Bảo Toàn – Mùa Vu Lan 2548)
Với tác giả truyện kể, thì: “mùa thu… vắng lặng và buồn quá!…” nhưng như thế vẫn chưa hẳn là chuyện ma quái hay ma quỉ, rất buồn tênh. Lại cũng có những chuyện buồn tênh, nhưng chẳng là ma quỉ hay ma mãnh gì hết, vẫn nên nghe:
“Học lớp 12, tôi không có thời gian về nhà xin tiền ba như 2 năm trước. Vì thế, tôi viết thư cho ba rồi ba đích thân lên đưa cho tôi.
Từ nhà đến chỗ tôi trọ học chừng 15 km. Nhà nghèo không có xe máy, ba phải đi xe đạp. Chiếc xe gầy giống ba…
Cuối năm, làm hồ sơ thi đại học, tôi lại nhắn ba. Lần này, sau khi đưa cho tôi một trăm ngàn, ba hỏi:
– “Có dư đồng nào không con?”.
Tôi đáp:
– “Còn dư bốn ngàn ba ạ”.
Ba nói tiếp:
– “Cho ba bớt hai ngàn, để lát về, xe có hư như lần trước thì có tiền mà sửa”.
Ba về, tôi đứng đó, nước mắt rưng rưng.” (Truyện về Ba, do người viết không ký tên là tác giả)
Và một truyện kể khác, về “má” cũng không tên người viết như sau:
“Ba hay má, vẫn cứ là những ma và quái âm thầm sống trong đời người làm gì có ma quỉ. Chi có ma, khi “Ba” và “Má” không chịu sống thân phận của mà, của Ba của con người nhiều phận buồn.
Má hay Ba, vẫn không là “Ma” hay “quái quỉ” gì, chỉ là con người đích-thực sống cuộc đời buồn như “ma” mà thôi.”
Thế đó, là chuyện đời cũng nên phiếm hoài, phiếm mãi để rồi sẽ nhận ra rằng: đời người, chỉ một chuyện phiếm rất sương sương nhưng không “vô thường”, rất xưa nay.
Thế đó, là câu chuyện “phiếm” đời người nói mãi không nguôi. Và không hết. Nói gì thì nói, chớ nên nói chuyện ma quái hoặc quỉ mà để rồi tất cả cũng trở-thành quái quỉ đến độ “trẻ không tha, già không thương”, là như thế.
Nói hoài nói mãi một chuyện phiếm, rồi cũng đến lúc ta nên dừng lại để về với ngôi vườn thượng uyển có những lời vàng rồi theo đó mà sống cùng, sống với nhau, cho nhau hạnh phúc mien trường, không sợ hãi. Lời rằng:
“Vào khoảng canh tư,
Ngài đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ.
Thấy Ngài đi trên mặt biển,
các ông hoảng hốt bảo nhau:
“Ma đấy!”,
và sợ hãi la lên.
Đức Giêsu liền bảo các ông:
“Hãy yên tâm,
chính Thầy đây,
đừng sợ!”
(Mt 14: 26)
Thế đấy là Ngài, vậy mà môn đệ cứ tưởng là “Ma!” Thế còn, ma kia, quỉ nọ mà người người lại cứ nghĩ là người. Người hay ma, ma hay người, vẫn chỉ là quan-niệm mà nhiều người còn nghĩ đến, mãi hôm nay.
Và, hôm nay xin trở về với đời thường để còn sống những chuỗi ngày còn lại cũng rất người, như người người, ở trong đời.
Trần Ngọc Mười Hai
Chưa từng gặp thứ ma mãnh
hoặc quỉ ma nào hết.
mà chỉ là
những người không thuộc loại
“quỉ tha ma bắt”,
mà thôi.