“Thăm thẳm chiều trôi,” | Chuyện phiếm Đạo/Đời
Chuyện Phiếm đọc trong tuần 31 thường niên năm A 05/11/2017
“Thăm thẳm chiều trôi,”
khuya anh đi rồi, sao trời đưa lối.
Khi thương mến nhau, hai người hai ngả tránh sao bồi hồi.
Hẹn gặp nhau đây, đêm thâu lá đổ,
sương giăng kín mờ, nhạt nhòa ước mơ.
Đã gặp nhau rổi, sao em không nói,
sao em cúi mặt, em giận hờn anh chăng?.”
(Trần Thiện Thanh – Tạ Từ Trong Đêm)
(Mc 9: 14-15)
Tạ từ vào giờ nào, sao không buồn? Khi đã “thăm thẳm chiều rơi” rồi, thì người anh kia cũng đi mất đất, đó là chuyện thường ở huyện luôn thấy “trời đưa lối”, “tránh sao bồi hồi”. Nhưng rồi, anh lại hát:
“Anh hiểu rồi đây khuya nay
em về trăng gầy soi bóng,
Nên em cúi mặt
ngăn giòng nước mắt phút giây tạ từ.
Đừng buồn nghe em,
tuy anh biết rằng
xa xôi vẫn làm tâm tư héo mòn.
Nếu em đã trọn thương anh xa vắng,
Xin em chớ buồn
cho nặng lòng chinh-nhân.
Nếu em biết rằng
có những người đi đấu tranh chưa về.
Mang lời thề lên miền sơn khê.
từng đêm địa đầu hun hút gió sâu.
Nếu em đã gặp mẹ già
thương con khấn nguyện đêm rằm.
Vợ yêu chồng đan áo lạnh từng đông.
Thì duyên tình mình có nghĩa gì không?
Anh hỏi một câu
khi trong đêm dài vọng về tiếng súng
Sao em cúi mặt
không nhìn đôi mắt hứa thương em trọn đời.
Đầu đường chia phôi anh không nói gì,
Nên phong kín lời hẹn tình lứa đôi.
Nếu anh có về khi tàn chinh chiến,
Xin em cúi mặt dấu lệ mừng nghe em.”
(Trần Thiện Thanh – bđd)
Lại như thế sao? Ai cho Anh tình yêu ư? Thứ tình “Của ngày thơ ngày mộng” ư? Hỏi ai trồng khoai đất này bây giờ. Câu hỏi này, chắc cũng nên chuyển cho nhiều người được biết, trong đó có tôi và bạn, là những người đang đọc giòng chữ nghĩa này, ở đây.
Thôi thì, nay đề-nghị bạn và tôi, ta nghe tiếp bài hát “trứ danh” trích ở trên, để rồi sẽ tính. Bài hát trên, có ca-từ nghe hơi lạ, rất như sau:
“Nhưng biết chỉ là mơ …
Nên lòng nức nở,
thương còn đi chứ yêu thì chưa đến
Nên gọi tên tình chưa đỗ bến,
(biết) nẻo mô mà tìm?
Nằm nghe cô đơn,
thoáng bước trong buồng
Giá buốt về tìm,
sao rơi cuối đêm
Nhà vắng mang nhiều cay đắng,
xua hồn đi hoang.”
(Trần Thiện Thanh – bđd)
Ố là là, toàn những chữ và chữ. Hết nói: “nằm nghe cô đơn”, rồi lại thấy “giá buốt về tim”, “sao rơi về đêm”, “xua hồn đi hoang” Ôi chao là âm-nhạc! Những âm và nhạc như thể “Cho tôi tình yêu”, “để làm duyên nụ cười.” Nhưng chưa hết, còn mấy đoạn sau đây, rất ư là “nhức nhối”:
“Ai cho tôi tình yêu,
để làm duyên nụ cười.
Tôi xin dâng tình tôi trọn đời,
người ơi người,
xin đừng e ấp,
làm tim nghẹn ngào ….”
(Trần Thiện Thanh – bđd)
Cho gì thì cho. Có “cho đi tình yêu” nhiều lắm, rồi cũng sẽ “nghẹn ngào”, “e ấp” đấy hỡi người. Vâng. Chuyện “cho đi tình yêu” ở đời, thường là như thế. Còn chuyện “cho đi lòng đạo” ở nhà Chúa, lại sẽ khó hơn nhiều. Để minh-xác chuyện này, thiết nghĩ bạn và tôi cứ thử để mắt đọc giòng chảy đầy những chữ ở Kinh Sách vẫn bảo rằng:
Khi Đức Giêsu và ba môn đệ trở lại với các môn đệ khác,
thì thấy một đám người rất đông đang vây quanh các ông,
và các kinh sư tranh-luận với các ông.
Thấy Đức Giêsu, lập tức tất cả đám đông kinh-ngạc.
Họ chạy lại chào Ngài.
Ngài hỏi các môn đệ:
“Anh em tranh-luận gì với họ thế?”
(Mc 9: 14-15)
“Tranh-luận gì với họ thế?” có thể là câu hỏi để đời, cho mọi người. Tức: những người trong đời chỉ muốn tranh-cãi và biện-luận với nhau suốt đời. Chi bằng, ta cứ mời nhau nghe câu truyện kể rất dễ nhớ đời mà đối xử với nhau cho phải phép, mà rằng:
“Thuở xưa có ông vua hiền đức nọ, cai trị rất công bằng, dân chúng trong nước sống thanh bình. Một hôm, qua đề-nghị của cận-thần tả/hữu, vua triệu-tập tất cả trưởng lão/tôn túc của các tôn giáo trong nước. Khi tất cả có mặt đầy đủ, vua nói:
– Thưa các vị giáo chủ, hôm nay ta mời các vị tới đây bàn luận vì ta muốn chọn một Ðạo trong các Ðạo để tôn làm quốc-giáo. Ta tin-tưởng rằng các vị đều sáng-suốt nhận-định, thế nên xin các vị bàn bạc với nhau tìm ra cho ta Ðạo nào hay nhất, đáng hưởng ân-phúc của hoàng gia. Ðạo nào cũng được, miễn sao mọi người đều kính phục, không ai được bắt bẻ hay chối bỏ.
Qua nhiều năm trời, mà nhà vua vẫn chưa có được câu trả lời, bởi ai cũng cho rằng Ðạo của mình là hay nhất, trong khi người khác lại không chịu như thế. Mọi người cứ thế tranh luận giằng co hết năm này sang tháng nọ. Một hôm, có vị hiền-triết nọ đi qua ghé thăm nước của nhà vua ấy. Sau khi nghe chuyện, ông ta cố đi tìm cho bằng được Ðạo-giáo hay nhất nhưng chưa thấy, bèn chạy đến xin lĩnh ý nhà vua:
– Tâu bệ hạ, bầy tôi đây có thể chỉ cho bệ hạ một Ðạo hay nhất mà không ai có thể bắt bẻ hay chối bỏ được.
Vua nghe thế, rất đỗi vui mừng vì hy vọng của mình sắp được toại nguyện sau nhiều năm mòn mỏi trông đợi.
– Thật vậy sao! Xin hiền-triết nói cho ta nghe ngay lập tức. Ta đã chờ giờ phút này quá lâu rồi!
– Xin bệ hạ kiên nhẫn hơn một chút. Bầy tôi sẽ tiết lộ cho bệ hạ tên của Ðạo này ở một nơi thật yên tĩnh, vắng vẻ. Ðúng trưa mai xin hẹn bệ hạ ở bờ sông Hằng, chúng ta sẽ vượt sông qua bờ bên kia và ở đó tôi sẽ nói cho bệ hạ biết tên của Ðạo này.
Sáng hôm sau, đúng hẹn, vua và vị hiền-triết gặp nhau trên bờ sông Hằng. Vua ra lệnh cho chiếc thuyền nọ đến gần để chở hai người sang bờ bên kia. Khi thuyền đến gần, vua sửa soạn bước lên thì vị hiền-triết chặn lại, bảo rằng ông ta muốn khám xét chiếc thuyền coi có tốt và bảo đảm không.
– Chiếc thuyền này không được vì có miếng ván bị nứt ở dưới đáy, nước có thể tràn vào, vị hiền-triết thưa.
Vua lại gọi chiếc thuyền khác đến. Sau khi khám xét, vị hiền-triết thấy có vài miếng ván bên hông thuyền hơi lỏng lẻo vì sút đinh. Nhà vua lại gọi một chiếc khác. Sau khi khám xét kỹ càng, vị hiền-triết lại từ-chối vì nước sơn của thuyền đã bị tróc.
Cứ thế, vua gọi hết thuyền này đến thuyền khác, chiếc nào vị hiền-triết cũng phát-giác ra được khuyết-điểm. Dần dà nhà vua không còn kiên nhẫn nữa. Chiều đã qua, hoàng hôn sắp đến. Sau cùng vua không nhịn được nữa bèn phán:
– Này nhà hiền-triết! Từ trưa tới giờ, ta đã gọi biết bao thuyền, chiếc nào ông cũng từ chối hết. Xin hỏi ông, thuyền tróc sơn một chút hoặc thiếu vài cái đinh thì đã sao? Nó vẫn đưa mình qua sông được kia mà! Sao ông để ý đến những khuyết điểm nhỏ nhặt, vậy.
Bấy giờ vị hiền-triết bèn nhìn vua một chốc, rồi ôn-tồn nói:
– Bệ hạ tự thấy rằng dù có vài khuyết điểm nhưng tất cả các thuyền kia đều có thể đưa mình qua sông được. Cũng thế, tất cả mọi Ðạo trong nước bệ-hạ đều giống các chiếc thuyền kia. Ðạo nào cũng có thể đưa bệ hạ nhập với Thượng đế. Ði tìm khuyết điểm của nhiều Ðạo khác nhau, là điều vô ích, thiếu sáng suốt. Bệ hạ hãy về lo việc triều đình, tiếp tục lấy đức trị dân và bình đẳng tôn trọng tất cả mọi Ðạo-giáo xem Ðạo nào cũng như Ðạo của chính mình vậy.
Nghe xong, vua liền phủ-phục dưới chân vị hiền-triết đảnh lễ. Khi ngẩng lên, vua sung sướng cảm thấy mình thực sự thấm nhuần minh triết. (Thích Trí Siêu trích từ sách “Ðạo Gì”)
“Đạo nào cũng như Đạo của mình”, đó không chỉ là phán-quyết rất không tồi, nhưng còn là nhận-xét khá tinh-tế. Cũng tinh-tế, như thể phán và quyết của đấng bậc vị vọng ở Sydney qua hỏi/đáp sau đây:
“Thưa Cha,
Vừa qua, con có nghe một người lại cứ quả quyết rằng nguyên-tắc về hiệu quả lưỡng-nguyên là cách giải-quyết vấn-đề lưỡng-nan đạo-đức. Con đây, chưa từng nghe những chuyện như thế bao giờ. Vậy, có thể nào xin cha giải-thích để con được am-tường?” Câu hỏi của một người thường xuyên theo dõi mục giải-đáp trên báo Đạo)
Thường xuyên đọc báo hay không, hễ cứ hỏi, là đấng bậc chắc chắn sẽ giải mã ngay tức thời. Bởi lẽ, nghề của “chàng” là như thế. Và chỉ mỗi thế, mà thôi. Và câu trả-lời của đấng bậc, sẽ như sau:
“Như anh/chị vừa cho biết, nguyên-tắc giải-quyết vấn-đề lưỡng-nguyên ở đây là cách giúp ta giải-toả những rắc rối/khó xử trong đời người, theo cách rất bổ ích.
Lý-do để ta gọi là hiệu-quả lưỡng-nguyên vì nó qui về tình-huống có hành-vi nào đó diễn ra có thể đem lại hiệu-quả xấu/tốt, khiến người trong cuộc rơi vào tư-thế cũng khó xử.
Hầu hết các tình-thế tiến-thoái lưỡng-nan về đạo-đức/chức-năng đều kéo theo tình-huống tốt/đẹp đồng thời cũng kèm theo tình-trạng xấu xa/tồi-tệ nữa. Bởi thế nên, nguyên-tắc ở đây cũng hữu-dụng để ta dễ giải-quyết chúng, cách xuyên suốt.
Ví-dụ điển-hình thường thấy ở sách giáo-khoa, là: trường-hợp nữ-phụ đang mang thai lại được chẩn-đoán nhuốm bệnh ung-thư tử-cung. Chị được bảo là triệu-chứng này ở vào thời kỳ cuối bắt buộc chị phải cắt bỏ tử-cung càng sớm càng tốt, mới sống sót. Chị không thể chờ đợi phẫu-thuật cho đến khi cháu bé chào đời. Hậu-quả tốt đẹp là nếu giải-phẫu thì chị sẽ được cứu sống. Còn chuyện hậu-quả xấu-xa/tồi-tệ là: trường-hợp cháu bé sẽ phải chết. Vậy câu hỏi ở đây, là: chị có quyết-định tiến tới giải-phẫu bất chấp mọi hậu-quả không?
Trên nguyên-tắc, phải thực-hiện ba điều-kiện, nếu muốn xúc-tiến hành-động để có thể biện-minh về luân lý. Ba điều-kiện ấy, như sau:
Thứ nhất, việc xúc-tiến hành-động phải tốt đẹp về mặt luân-lý hoặc ít ra cũng khá tốt. Điều đó có nghĩa: tự thân, hành-động xúc-tiến phẫu-thuật không thể là chuyện xấu xa, như: giết người, ngoại tình hoặc trộm cắp… bao giờ hết. Ở đây, việc cắt bỏ cơ-phận đã nhiễm bệnh khỏi tử-cung của nữ-phụ bị bệnh, là hành-vi tốt đẹp về mặt luân-lý/đạo-đức. Giả như, nữ-phụ ấy không mang thai, sẽ không thành vấn-đề dù chị quyết-định xúc-tiến cuộc giải-phẫu.
Thứ hai là, ý-định xúc-tiến sự việc đều phải là việc tốt đẹp, mới được. Ở đây, ý-định cứu-vãn sự sống của người nữ-phụ bằng cách cắt bỏ tử-cung người bệnh ngặt-nghèo, thì đây là ý-định tốt. Sự việc lại sẽ khác hẳn, nếu đương-sự hài lòng với phẫu-thuật, do bởi hành-động này sẽ chấm-dứt sự sống của đứa con chị, đồng thời khiến chị sẽ không thể có con trong tương-lai, tức có nghĩa: những gì khiến chị suy-nghĩ tìm cách giải-quyết, là chứng bệnh ung-thư hiện đang làm cho sự việc trở nên dễ dàng hơn, đối với chị.
Đây có thể là ý-định xấu. Nhưng, giả như chị than-phiền về việc bé em của chị sẽ phải chết và chị không còn khả-năng có con được nữa trong tương-lai, như thế tức là chị đã có ý-hướng tốt rồi.
Thứ ba nữa, đây phải có lý-do xứng-hợp mới có thể xúc-tiến hành-động. Nói cách khác, phải có sự tương-xứng thích-đáng giữa hiệu-quả tốt với hệ-luỵ xấu. Hiệu-quả tốt đây, là: cứu cho người mẹ được sống, tức: tương-xứng với cái chết của trẻ bé. Và như thế, người mẹ mới dám xúc-tiến cuộc giải-phẫu được.
Giả như chị không chịu xúc-tiến giải-phẫu, thì cả chị lẫn bé em đều sẽ chết. Nên nhớ: đây không là hành-động trực-tiếp phá thai. Nhưng, chỉ là việc cắt bỏ dạ con đã nhuốm ung-thư là căn-bệnh khiến tử-cung người phụ-nữ không thể tồn tại, đành phải chết. Và, đây được coi là hành-động phá-thai cách gián-tiếp, thôi.
Tôi còn nhớ trường-hợp cách nay nhiều năm, là chuyện: nữ-phụ nọ đã có thai được 4 tháng rưỡi rồi, nhưng chị lại bị chứng ói mửa nghiêm-trọng mà khoa-học gọi là: “chứng sung-huyết nghiêm-trọng”, nên chị không có khả-năng giữ thức ăn đưa vào bụng và vì thế cứ đi dần vào cõi chết. Rõ ràng là, cơ thể chị không thể đối-đầu với chuyện mang thai được nữa và chỉ còn cách duy-nhất muốn cứu sống chị, là phải cắt bỏ tử-cung đã nhuốm bệnh, không tài nào tồn-tại được nữa.
Nếu áp-dụng 3 điều-kiện nguyên-tắc về hiệu-quả lưỡng-năng, thì rõ ràng chỉ mỗi hai điều kiện cuối là còn chấp-nhận được, trong khi đó thì điều-kiện đầu-tiên là không thể được. Ở đây nữa, việc ta phải làm, là: cắt bỏ thai-nhi một cách gián-tiếp, tức: sự xấu đã nằm ở đó, rồi.
Có điều là: nữ-phụ nói đây lại là y-tá theo đạo Công-giáo nên chị hiểu/biết rất rõ thế nào gọi được là có hoặc không có chuyện phá thai một cách gián-tiếp. Và, chị chọn lựa sẽ không làm thế; do đó, chị và cháu bé đều phải chết. Thế nhưng, khi trước có lần chị từng tuyên-bố là: chị không muốn giết chết thai-nhi đồng thời lại muốn cứu sống sinh mạng chỉ mình chị, thôi.
Có lẽ, giải-pháp thoả-đáng cho trường-hợp này, nếu nó xảy ra hôm nay, là: ta cố chờ chừng vài tuần-lễ nữa để xem tử-cung người mẹ tương-lai xem có hy-vọng sống sót không, sau đó mới tiến tới sinh đẻ. Giả như cháu bé không sống sót, thì ít ra cũng tạo cho bé có được cơ-hội, cũng là hy-vọng.
Mọi việc nói trên, đều là những khó-khăn trong chọn-lựa giải-pháp luân-lý/đạo-đức, và con người không nênphê-phán những ai từng làm thế. Tuy nhiên, điều thấy rõ là: con người không thể làm điều xấu xa/ác độc với lý-do là để có sự tốt đẹp từ đó.
Nói tóm lại, nguyên-tắc hiệu-quả lưỡng-nguyên có thể rất hữu-ích giúp ta giải-quyết vấn-đề luân-lý/đạo-đức trong tình-thế tiến-thoái lưỡng-nan trong đó mọi người phải đứng trước chọn lựa có liên-quan đến việc gây ảnh-hưởng tốt/xấu trong đời người.
Điều cần nhớ về 3 điều-kiện nói trên là: ta cần tham-khảo thêm ý-kiến của người khác, nếu có điều gì còn ngờ-vực.” (X. Lm John Flader, “Evil consequences but not of evil intent”, The Catholic Weekly 23/7/2017, Question Time tr. 23)
Nói chuyện luân-lý/đạo đức như ở trên, chỉ để nói lên rằng: trong đời người, nhiều việc nhìn qua cứ tưởng dễ, nhưng khi tra tay hoặc khi đã ở trong cuộc, rồi mới thấy.
Và, có nhiều chuyện cũng liên-quan đến vấn-đề đặt ra, thật cũng khó mà giải quyết. Hệt như bài ca trích-dẫn ở trên, vẫn hát rằng:
“Thăm thẳm chiều trôi,”
khuya anh đi rồi, sao trời đưa lối.
Khi thương mến nhau, hai người hai ngả tránh sao bồi hồi.
Hẹn gặp nhau đây, đêm thâu lá đổ,
sương giăng kín mờ, nhạt nhòa ước mơ.
Đã gặp nhau rổi, sao em không nói,
sao em cúi mặt, em giận hờn anh chăng?”
Và, câu tiếp vẫn nhắc nhở anh và em rằng:
“Anh hiểu rồi đây khuya nay em về trăng gầy soi bóng,
Nên em cúi mặt ngăn giòng nước mắt phút giây tạ từ.
Đừng buồn nghe em,
tuy anh biết rằng xa xôi vẫn làm tâm tư héo mòn.
Nếu em đã trọn thương anh xa vắng,
Xin em chớ buồn cho nặng lòng chinh-nhân.
Nếu em biết rằng
có những người đi đấu tranh chưa về.
Mang lời thề lên miền sơn khê.
từng đêm địa đầu hun hút gió sâu.
Nếu em đã gặp mẹ già
thương con khấn nguyện đêm rằm.
Vợ yêu chồng đan áo lạnh từng đông.
Thì duyên tình mình có nghĩa gì không?
Anh hỏi một câu khi trong đêm dài
vọng về tiếng súng
Sao em cúi mặt
không nhìn đôi mắt hứa thương em trọn đời.
Đầu đường chia phôi anh không nói gì,
Nên phong kín lời hẹn tình lứa đôi.
Nếu anh có về khi tàn chinh chiến,
Xin em cúi mặt dấu lệ mừng nghe em.”
(Trần Thiện Thanh – bđd)
ooo
Trần Ngọc Mười Hai
Với những câu hỏi trong đời
Nhiều lúc cũng khó nói
Khó trả lời
Bằng ngôn-ngữ
Của người đời.